TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 129/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 138/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2018/QĐXXST-HS ngày 15/11/2018 đối với các bị cáo:
1. Bùi Văn S; sinh năm: 1991 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: rửa xe; trình độ học vấn: không biết chữ; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Bùi Văn B, sinh năm 1958 và bà: Kiều Thị Yến H, sinh năm 1961; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam: ngày 08/8/2018. Có mặt.
2. Mai C; sinh năm: 1983 tại Cần Thơ; nơi đăng ký thường trú: xã C, huyện D, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khơ me; con ông: Mai V (chết) và bà: Nguyễn Thị Thu H; có vợ: Dương Thị Thảo L, sinh năm 1997 và 03 con: lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2017; nhân thân: Bản án số 09/2011/HSST ngày 21/01/2011 Tòa án nhân dân Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 05/9/2012; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam: ngày 08/8/2018. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Chu Thị M, sinh năm 1961, nơi cư trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965, nơi cư trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 08/8/2018, Công an Phường A, quận B kiểm tra hành chính nhà số XX, đường YY, Phường A, quận B do Chu Thị M thuê ở. Tại thời điểm kiểm tra, không có mặt Chu Thị M. Qua kiểm tra phát hiện bắt quả tang Bùi Văn S, Mai C và Nguyễn Văn T đang cất giấu trái phép chất ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ:
- Thu giữ trên tay trái của Bùi Văn S đang cầm có 01 bóp da màu trắng bên trong có 18 gói nylon được hàn kín chứa chất tinh thể không màu. Kết luận giám định số 1377/KLGĐ-H ngày 16/8/2018 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh: tinh thể không màu nêu trên là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 6,6215 gam, loại Methamphetamine.
- Thu giữ trong túi quần jean nhỏ bên phải phái trước của Mai C đang mặc có 01 gói nylon được hàn kín hai đầu chứa tinh thể không màu. Kết luận giám định số 1377/KLGĐ-H ngày 16/8/2018 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh: tinh thể không màu nêu trên là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3110 gam, loại Methamphetamine.
- Thu dưới sàn nhà ngay vị trí Mai C đang ngồi có 01 gói nylon được hàn kín chứa chất tinh thể không màu. Kết luận giám định số 1377/KLGĐ-H ngày 16/8/2018 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh: tinh thể không màu nêu trên là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9336 gam, loại Methamphetamine.
Khám xét khẩn cấp tại nhà số XX, đường YY, Phường A, quận B chỗ ở của Bùi Văn S, thu giữ: 01 cân điện tử, 20 gói nylon, 01 kéo kim loại, 01 kẹp kim loại, 01 ống xúc bằng nhựa, 01 bình gas mini tại ngăn gỗ thứ hai của kệ gỗ đặt sát mép tường phòng ngủ, 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh dưới sàn trong phòng ngủ.
Quá trình điều tra, Bùi Văn S khai nhận là hàng xóm của bà Chu Thị M, có quan hệ tình cảm với Nguyễn Hoàng Bảo N (con gái bà M). Ngày 04/8/2018, bà M gặp S nói bà bỏ nhà đi trốn nợ nên nhờ S trông hộ nhà số XX, đường YY, đưa S 01 điện thoại di động Nokia nhờ chuyển giùm cho N liên lạc. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là S mua của một người đàn ông không rõ lai lịch ở cầu ZZ, Quận E với giá 1.100.000 đồng. Khoảng 21 giờ ngày 08/8/2018, S ở nhà bà M một mình lấy ma túy ra bỏ vào bình hút sử dụng thì có bạn Nguyễn Văn T là bạn của bà M đến đưa tiền hụi 1.300.000 đồng cho bà M, T thấy S đang sử dụng ma túy nên tự động lấy bình hút sử dụng ma túy. Một lát sau thì Mai C là con rể bà M đến thấy S đang sử dụng ma túy, T đang nằm ngủ nên tự động lấy bình hút sử dụng ma túy. Khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, Công an Phường A, quận B kiểm tra phát hiện bắt quả tang thì S đang cầm 01 bóp da màu trắng bên trong có 18 gói nylon ma túy. Trước đây, S, C và T cùng sử dụng ma túy chung 04 lần, bà M và chị N không biết việc cả ba sử dụng ma túy chung, S không rủ rê, lôi kéo C và T sử dụng ma túy chung.
Mai C khai nhận là con rể bà M, bản thân có sử dụng ma túy. C ở nhà bà M được 4-5 ngày để trông nhà cho bà M. Khoảng 17 giờ ngày 08/8/2018, C đến chợ F mua 01 gói nylon ma túy đá của người đàn ông không rõ lai lịch với giá 400.000 đồng để sử dụng và giấu vào túi nhỏ phía trước của quần jean đang mặc. Trên đường chạy xe về ngang đường AA, quận I thì C có lượm được 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, C nghĩ là ma túy nên mang về nhà bà M.
Đến nơi, C thấy S đang ngồi sử dụng ma túy, T đang nằm ngủ nên tự động lấy bình hút sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng hết ma túy trong bình, C lấy 01 gói nylon ma túy đá bỏ xuống đất ngay chỗ ngồi, C nói mới lượm được gói nylon chứa tinh thể không màu này ngoài đường. C nghĩ là ma túy nên mang về định hỏi Sang. Lúc này Công an Phường A, quận B kiểm tra bắt quả tang thu giữ trong túi quần jean nhỏ phía trước C đang mặc 01 gói nylon ma túy và thu giữ dưới sàn ngay chỗ ngồi của C 01 gói nylon ma túy. C không biết S cất giấu 18 gói ma túy và S không rủ rê C sử dụng ma túy.
Nguyễn Văn T khai nhận bản thân nghiện ma túy, làm nghề chạy xe ôm, quen biết với bà M, thấy T ngủ ngoài đường nên bà M nói về ngủ tại nhà bà. Ngày 04/8/2018, M gặp T nói bận đi đám cưới sẽ không ở nhà nhiều ngày. Khoảng 21 giờ ngày 08/8/2018, T đến nhà bà M đưa tiền hụi thì thấy S đang ngồi sử dụng ma túy nên tự động lấy bình hút ma túy rồi nằm ngủ thì C đến rồi Công an Phường A, quận B kiểm tra hành chính. Trước đây, S và T có sử dụng chung ma túy 02 lần. T không biết S và C có cất giấu ma túy trong người, S không rủ rê Tư sử dụng ma túy chung.
Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn S, Mai C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Kết quả xét nghiệm cả hai dương tính với chất ma túy.
Qua làm việc, Nguyễn Hoàng Bảo N (con gái bà M) khai không biết Mai C, Bùi Văn S và Nguyễn Văn T sử dụng hay cất giấu ma túy và không biết hiện nay bà M đang ở đâu.
Đối với Chu Thị M, sinh năm 1961, hộ khẩu thường trú: Phường A, quận B hiện không có mặt tại địa phương, bỏ đi đâu không rõ tháng 8/2018 đến nay và không rõ ở đâu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình không làm việc được.
Đối với đối tượng Nguyễn Văn T dương tính với chất Morphine MOP, không có nơi cư trú ổn định nên lập hồ sơ đưa đi cai nghiện Nhị Xuân.
Đối với đối tượng bán ma túy dạo tại Quận I và huyện H, Bùi Văn S và Mai C khai không rõ nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở điều tra làm rõ.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe gắn máy hiệu Wave S màu đỏ xam đen biển số 59K2-001.91, số khung: RLHHC09057Y896590, số máy: HC09E6719104. Qua xác minh chủ sở hữu hợp pháp là anh Lai Phước T1, sinh năm 1989, hộ khẩu thường trú: Phường A, quận B. Vào sáng ngày 08/8/2018, Bùi Văn S là thợ rửa xe tại tiệm rửa xe của anh có mượn xe của anh chở bạn gái đi khám thai. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy trên cho anh T1.
- 03 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải, ghi số 1377 (ma túy còn lại sau giám định).
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số tiền 10.100.000 đồng, 01 cân điện tử, 20 bịch nylon, 01 kéo, 01 kẹp, 01 ống xúc bằng nhựa, 01 bình gas và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh thu giữ của S.
- 01 điện thoại di động Trung Quốc hiệu Huawei thu giữ của C.
Tại bản cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 14 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo Mai C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 Tại phiên tòa:
- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Bùi Văn S từ 05 năm đến 06 năm tù, bị cáo Mai C từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Bùi Văn S, Mai C, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Văn S đã có hành vi cất giấu 6,6215 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo Mai C đã có hành vi cất giấu 1,2446 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Xét nhân thân bị cáo C là xấu, bị cáo đã bị kết án nhưng không lấy làm bài học cho bản thân là lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho các bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Về vật chứng vụ án:
- 03 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải, ghi số 1377 (tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số tiền 10.100.000 đồng, 01 cân điện tử, 20 bịch nylon, 01 kéo, 01 kẹp, 01 ống xúc bằng nhựa, 01 bình gas và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh thu giữ của bị cáo S. Bị cáo khai điện thoại Nokia là của bà Chu Thị M đưa cho bị cáo để đưa lại cho con gái bà M. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bà M, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bà M. Đối với số tiền 10.100.000 đồng, bị cáo khai trong đó có 1.300.000 đồng là tiền ông Nguyễn Văn T nhờ bị cáo đưa lại cho bà M, còn lại 8.800.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy số tiền 1.300.000 đồng là tài sản hợp pháp của ông Tư nên cần trả lại cho ông Tư, số tiền 8.800.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với 01 cân điện tử, 20 bịch nylon, 01 kéo, 01 kẹp, 01 ống xúc bằng nhựa, 01 bình gas và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh là những vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động Trung Quốc hiệu Huawei thu giữ của bị cáo C. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Bùi Văn S;
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Mai C;
Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
[1] Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn S, Mai C phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo : Bùi Văn S 06 (sáu) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 08/8/2018.
Xử phạt bị cáo : Mai C 02 (hai) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 08/8/2018.
[2] Tịch thu và tiêu hủy: 03 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải, ghi số 1377 (tang vật ma túy còn lại sau giám định), 01 cân điện tử, 20 bịch nylon, 01 kéo, 01 kẹp, 01 ống xúc bằng nhựa, 01 bình gas và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh.
Trả lại cho bà Chu Thị M 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số imeil: 354880080232827.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn T 1.300.000 (một triệu ba trăm ngàn) đồng. Trả lại cho bị cáo Bùi Văn S 8.800.000 (tám triệu tám trăm ngàn) đồng. Trả lại cho bị cáo Mai C 01 điện thoại di động hiệu Huiwet số imeil: 862494032840045.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 178/PNK ngày 05/11/2018 của Công an quận Tân Bình).
[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.
Bản án 129/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 129/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về