TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ẢN 129/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 10 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 230/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1996; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã L, huyện T, thành phố H; nơi ở hiện nay: Thôn P, xã T, huyện T, thành phố H; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Đinh Văn M, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2018 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Phạm Thị H trình bày:
1. Về hôn nhân:
Chị H và anh Đinh Văn M kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 11/4/2014 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố H. Sau cưới, chị H về gia đình anh M sinh sống, vợ chồng đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn L, xã L cho đến nay. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận và có 01 con chung, đến tháng 10/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung, không tin tưởng nhau về kinh tế và tình cảm nên thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tại Thôn P, xã T,vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay và không còn quan tâm nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh M.
Trong các lời khai tại Tòa án, bị đơn là anh Đinh Văn M trình bày: Công nhận lời trình bày của chị H về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, đến tháng 11/2017 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ đó cho đến nay. Chị H xin ly hôn, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nhưng nếu chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn.
2. Về con chung:
Chị H trình bày chị và anh M có 01 con chung tên là Đinh Thị H sinh ngày 31/3/2012. Anh M trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Khi ly hôn, chị đề nghị để anh M tiếp tục nuôi con. Cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh M tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Anh M công nhận anh và chị H có 01 con chung như chị H trình bày và lời trình bày về con chung của chị H là đúng. Nếu ly hôn, anh đề nghị được tiếp tục nuôi con. Cấp dưỡng nuôi con chung để anh và chị H tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
3. Về tài sản chung:
Chị H và anh M thống nhất trình bày vợ chồng có tài sản chung để tự giải quyết với nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn không chấp hành pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Về hôn nhân: Chị Phạm Thị H được ly hôn anh Đinh Văn M; về con chung: Giao cho anh Đinh Văn M trực tiếp nuôi con chung tên là Đinh Thị H sinh ngày 31/3/2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Phạm Thị H vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn là anh Đinh Văn M vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh M đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 47 đăng ký ngày 11/4/2014 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn từ cuối năm 2017 và sống ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị H yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh M.
[3]. Về con chung: Chị H và anh M có 01 con chung tên là Đinh Thị H sinh ngày 31/3/2012. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, anh M trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, việc nuôi con đã ổn định và đảm bảo tốt về mọi mặt, khi ly hôn chị H đề nghị để anh M trực tiếp nuôi con, anh M đề nghị được tiếp tục nuôi con. Do vậy, cần giao con chung cho anh M trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H và anh M đề nghị để tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5]. Về tài sản chung: Chị H và anh M trình bày có tài sản chung để tự giải quyết với nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.
[6]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:
1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị H được ly hôn anh Đinh Văn M.
2. Về con chung: Giao cho anh Đinh Văn M trực tiếp nuôi con tên là Đinh Thị H sinh ngày 31/3/2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008893 ngày 12/4/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Phạm Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản ản 129/2018/HNGĐ-ST ngày 10/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 129/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về