TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 128/2020/HS-PT NGÀY 03/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 35/2020/HSPT ngày 07/01/2020 đối với bị cáo Võ Thái A do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 150/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Thái A, sinh năm 1996 tại Long An; nơi thường trú: 58 khu phố B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An; nghề nghiệp: nhân viên chuyển phát nhanh; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Minh D và bà Phan Thị E; có vợ Lý Thị Kim G (chưa đăng ký kết hôn) và 01 con sinh ngày 08/5/2018; tiền án: không, tiền sự: ngày 12/11/2018 Công an thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 212 xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa đóng phạt:
Nhân thân:
- Ngày 08/01/2013 bị Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An ra quyết định số 2048 ngày 28/12/2012 đưa vào Trường giáo dưỡng số 5 về hành vi “Trộm cắp tài sản” thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 07/01/2015:
- Ngày 04/5/2018 bị Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An ra quyết định xử phạt hành chính số 101 xử phát 2.500.000 đồng về hành vi “Cất giấu dao trong người nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng”, ngày 11/5/2018 đã đóng phạt:
Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/8/2019. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Thái A và Lý Thị Kim G chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà trọ số 58/85 Nguyễn Minh Hoàng, phường 12, quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 20/8/2019, cả hai đi bộ về nhà trọ, A nhìn thấy chiếc xe máy Honda Lead màu kem, biển số 59V2 – 412.88 của Nguyễn Thị Thắm Em (thuê phòng trọ cùng địa chỉ trên) dựng ngay cửa, không khóa cổ nên nảy sinh ý định lấy trộm xe nhưng không cho G biết. Cả 2 lên phòng của mình, khoảng 5 phút sau, A và G đi xuống tầng trệt để cùng về quê ở Long An, G đi về phía ngoài cửa, A đến dẫn xe máy của Thắm Em ra ngoài, đồng thời yêu cầu G đóng cửa lại rồi dắt bộ ra hướng đường Trường Chinh, G hỏi A tại sao lại dắt xe người khác, A trả lời “do kẹt tiền”; lo sợ A bị phát hiện, G đứng canh cho A dắt xe và đi bộ theo A, A đẩy bộ xe đến tiệm sửa khóa xe ngay ngã tư Bàu Cát 4 - Đồng Đen, Phường 14, quận Tân Bình gặp Tô Minh Lợi nói “khi đi uống cà phê làm mất chìa khóa” và nhờ Lợi mở khóa, làm chìa mới. G cũng nói với Lợi là đi uống cà phê làm mất chìa khóa để Lợi tin mở khóa, làm chìa khóa xe cho A với tiền công là 150.000 đồng. Do không có tiền trả nên A để lại chiếc điện thoại làm tin, hứa sẽ đến chuộc sau.
A điều khiển xe máy vừa trộm được chở G đến địa chỉ số 148 Lê Lợi, Phường 1, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An gặp bạn là Nguyễn Minh M (tên gọi khác là Tỵ) cầm cố xe được 7.000.000 đồng, A cho M biết là xe người nhà đem cầm. Sau khi có tiền, A đưa cho G 1.000.000 đồng và cả 2 đón xe về nhà mẹ G ở thành phố Tân An, tỉnh Long An thăm con, G có đưa cho bà Trần Thị Toàn (mẹ của G) 500.000 đồng. Sau đó, cả hai đến nhà bạn của A tại Vĩnh Long chơi và tiêu xài hết số tiền còn lại. Đến sáng ngày 23/8/2019, A và G quay lại nhà trọ thì bị Cơ quan công an mời về làm việc.
Quá trình điều tra Võ Thái A và Lý Thị Kim G thừa nhận hành vi trộm cắp xe gắn máy như trên.
Nguyễn Minh M khai nhận: M nhận cầm chiếc xe trên cho A với số tiền 7.000.000 đồng nhưng không biết xe là do A trộm cắp tài sản mà có. Do cần tiền, M đã cầm lại chiếc xe trên cho 01 người bạn tên Bình (không rõ lai lịch) được 8.500.000 đồng. Quá trình điều tra, M được biết chiếc xe trên do A phạm tội mà có và tự nguyện nộp lại 8.500.000 đồng, không yêu cầu A hoàn trả lại. Do người tên Bình, Thắng khai không rõ lai lịch nên không thu hồi được chiếc xe.
Nguyễn Minh M không biết chiếc xe do A phạm tội mà có và bà Trần Thị N không biết số tiền 500.000 đồng G đưa để mua sữa cho con là do G và A phạm tội mà có nên không có cơ sở khởi tố về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Tại bản kết luận giám định số 241/HĐĐGTS-TTHS ngày 08/10/2019 của UBND quận Tân Bình kết luận: chiếc xe gắn máy Honda Lead biển số 59V2 – 412.88, số máy: JF45E0693730, số khung: 4519FY640035 trị giá 30.000.000 đồng, bà Thắm Em yêu cầu bồi thường 28.000.000 đồng. Các bị cáo chưa bồi thường.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 150/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Thái A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào Điều 38; Điều 47; Điều 48; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Võ Thái A 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/8/2019.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên giải quyết về dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 10/12/2019, bị cáo Võ Thái A có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Tân Bình xin giảm nhẹ hình phạt.
Trong vụ án này còn có bị cáo Lý Thị Kim G bị xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không có kháng cáo và không bị kháng nghị.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Võ Thái A đã thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại, mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Võ Thái A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo trong thời gian hợp lệ. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, thể hiện thái độ ăn năn hối cải mong muốn được hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa bị cáo cũng không nêu thêm được tình tiết nào mới, mức án 02 (hai) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Võ Thái A không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Tân Bình, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Võ Thái A đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 20/8/2019, bị cáo Võ Thái A cùng với Lý Thị Kim G đã có hành vi lét lút lấy trộm tài sản là 01 xe hai bánh gắn máy máy nhãn hiệu Honda Lead biển số 59V2 – 412.88 trị giá 30.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Thắm Em đang dựng ngay cửa phòng trọ nhà số 58/85 Nguyễn Minh Hoàng, Phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, dữ liệu camera thu thập được… nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và đã xem xét, đánh giá tính chất mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Từ đó xử phạt bị cáo với mức án 02 (hai) năm tù là đã xem xét đầy đủ, toàn diện tính chất, mức độ vi phạm của bị cáo, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
[4] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét thấy ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo như kể trên, thì bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới chưa được xem xét. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, trong vụ án này bị cáo là người chủ động và trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, mức án 02 (hai) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.
Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thái A, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 150/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.
Tuyên bố bị cáo Võ Thái A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào Điều 38; Điều 47; Điều 48; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Võ Thái A 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/8/2019.
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Võ Thái A phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 128/2020/HS-PT ngày 03/03/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 128/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về