Bản án 128/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 128/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 119/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh năm 1985 tại tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Tổ 9, khu phố L, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Trần Thị L; có vợ là Phạm Thị L và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 04/4/2019 (có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác: Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1993; địa chỉ: Khu phố S, phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn S là đối tượng nghiện ma túy đá. Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, S đã mua ma túy về bán lại cho các con nghiện khác. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/4/2019, S đi đến khu vực phường L, thành phố B mua của một người đàn ông tên T (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 2.000.000 đồng. Sau đó, S cất giấu gói ma túy trên trong túi quần trước bên phải chiếc quần Jean đang mặc. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 04/4/2019, S mang theo gói ma túy đi đến khu vực gần nhà thờ S thuộc khu phố S, phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì bị cơ quan Công an kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất kết tinh, không màu, trong suốt; 02 điện thoại di động và số tiền 350.000 đồng.

Sau khi S bị bắt, vào khoảng 00 giờ 15 phút cùng ngày có đối tượng Nguyễn Minh H đã gọi điện cho S hỏi mua 01 gói ma túy đá (góc tám) với giá 500.000 đồng. Sau đó, Cơ quan điều tra đã mời Hoàng về trụ sở làm việc, H khai nhận mua ma túy của S về để sử dụng.

* Bản Kết luận giám định số 125/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 10/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xác định:

“Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của công an phường Tân Phước – CATX Phú Mỹ, tỉnh BR – VT và 02 hình dấu vân tay màu đỏ ghi “Ngón trỏ trái, ngón trỏ phải – Nguyễn Văn S”, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Lê Đình H, Nguyễn Văn Dg, Nguyễn Trung H, Dương Văn T, gửi đến giám định có khối lượng 5,0226 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra, S khai nhận cất giấu số ma túy trên để nhằm mục đích sử dụng và bán lại cho các con nghiện khác kiếm lời. Đồng thời S còn khai nhận trước đó đã 03 lần mua ma túy của T và dùng số ma túy trên để bán lại cho các đối tượng khác. Ngoài ra, bị cáo cũng xác định đã 02 lần bán ma túy cho đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực thuộc thôn L, xã T, thị xã P, trong đó lần gần nhất bán cho H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng là vào khoảng 10 giờ ngày 02/4/2019.

* Cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 12/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ đã truy tố Nguyễn Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

* Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên:

Giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn S từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu FPT, màu đen viền đỏ; trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động hiệu ASUS, màu đen xám và số tiền 350.000 đồng.

* Lời khai của bị cáo: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng. Bị cáo không có ý kiến bào chữa mà chỉ đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng.

Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nêu trên. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng.

Xét lời khai của bị cáo S tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó đã xác định được: Vào khoảng 00 giờ 10 phút ngày 04/4/2019, tại khu phố S, phường T, thị xã P khi bị cáo đang có hành vi cất giữ trái phép 5,0226 gam chất ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng và bán lại cho các đối tượng khác thì bị cơ quan Công an bắt quả tang.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo còn tự nguyện khai nhận trước đó đã 03 lần mua ma túy của T rồi sau đó nhiều lần bán lại cho các đối tượng khác kiếm lời, trong đó đã 02 lần bán ma túy cho H và lần bán gần nhất là vào ngày 02/4/2019. Mặc dù, cơ quan điều tra không xác định và lấy được lời khai của những người đã mua ma túy của bị cáo nhưng cũng đủ cơ sở xác định bị cáo đã mua bán trái phép chất ma túy với thêm tình tiết tăng nặng định khung là phạm tội nhiều lần.

Do đó, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.

Bị cáo là công dân đã trưởng thành và hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vì muốn có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dụng mà bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật để nhiều lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng nghiện khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó, đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt tù thật nghiêm khắc để nhằm răn đe, giáo dục đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự thú về các hành vi phạm tội trước đó của mình. Do đó, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo là người nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy là vật chứng của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu FPT, màu đen viền đỏ là vật chứng trực tiếp liên quan đến tội phạm nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu ASUS, màu đen xám và số tiền 350.000 đồng là tài sản không liên quan đến tội phạm nên trả cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

[9] Đối với đối tượng tên Thanh đã bán ma túy cho bị cáo hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 04/4/2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 bì thư niêm phong số 125 ngày 10/4/2019 có chữ ký của giám định viên Võ Thanh H, phó trưởng phòng Lê Bá H, mộc dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu hiệu FPT, màu đen viền đỏ đã cũ, số Imei: 980018007013804.

Trả lại cho bị cáo S 01 chiếc điện thoại di động hiệu ASUS, màu đen xám đã cũ và số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Toàn bộ vật chứng và tài sản nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 95 ngày 12/8/2019.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:128/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về