TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 127/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 108/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2018 đối với:
1. Bị cáo: Ngô Thiện T, sinh năm 1986 tại thành phố X, tỉnh G. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường T, thành phố X, tỉnh G; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 05/12; giới tính: nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: đạo Thiên Chúa; con ông Ngô Ngọc S, sinh năm 1948 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1951; vợ: Huỳnh Thị Bảo A, sinh năm 1993 và có 01 con tên Ngô Huỳnh Văn P, sinh năm 2016.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/7/2018 đến nay và bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Bị cáo: Mạch V, sinh năm 1985 tại thành phố X, tỉnh G. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường L, thành phố X, tỉnh G; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 08/12; giới tính: nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: đạo Phật; con ông Mạch P, sinh năm 1949 và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1951; Chưa có vợ con.
Tiền án: Ngày 27/02/2015 bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29/3/2016, chấp hành xong hình phạt nhưng chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm;
Tiền sự: Ngày 19/8/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 16 tháng, đến ngày 11/9/2017 chấp hành xong quyết định.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/7/2018 đến nay và bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyên đơn dân sự: Trung tâm kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường chất lượng T. Địa chỉ: phường K, Quận K, thành phố T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 06/11/2018.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
4.1. Ông Phạm Nguyễn Hồng N, sinh năm 1986. Địa chỉ phường L, Quận K, thành phố T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 06/11/2018.
4.2. Ông Trần Hoài P, sinh năm 1995. Địa chỉ: xã M, huyện C, tỉnh M; Vắng mặt
4.3. Ông Võ Quốc N, sinh năm 1977. Địa chỉ: phường T, Quận M, thành phố T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 06/11/2018.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 ngày 09/7/2018, Ngô Thiện T rủ và điều khiển xe mô tô biển số 69S1-6650 chở Mạch V đến khu vực phường Q, thành phố X, tỉnh G với mục đích tìm tài sản lấy trộm. Khi đến khu vực khóm T, phường Q, thành phố X, tỉnh G thấy xe ô tô bán tải biển số 65A-003.20 của Trung tâm Kỹ Thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T đậu trên vỉa hè trước cửa Công ty Agimex, cốp sau mở nên T dừng xe cho V đến mở cốp xe ô tô lấy trộm 01 máy đo tiếng ồn, 09 cục pin tiểu, 01 hộp nhựa màu xám bên trong có khẩu trang và găng tay y tế. Sau đó, T chở V đem tài sản trên đến căn nhà không có người ở tổ 1, khóm T, phường Q cất giấu. Riêng khẩu trang y tế và găng tay T ném bỏ trên đường đến căn nhà trên.
Đến ngày 12/7/2018, T và V đến Công an phường Q đầu thú và giao nộp 01 hộp nhựa màu xám, 01 máy đo tiếng ồn, 09 cục pin tiểu có tổng giá trị 19.522.500 và xe mô tô biển số 69S1-6650
Vật chứng thu giữ: 01 máy đo tiếng ồn cầm tay Nhật Bản, nhãn hiệu Rioa, Model NL-21, màu xám; 09 cục pin tiểu, 01 hộp nhựa màu xám kích thước 40cm x 30 cm; đã giao trả cho người bị hại.
Căn cứ Kết luận về việc xác định giá trị tài sản trong tố tụng hình sự số 70/KL-HĐ ngày 12/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Xuyên, ghi nhận:
- 01 (một) máy đo độ ồn cầm tay Nhật Bản nhãn hiệu Rion, Model NL-21
+ hộp nhựa đựng máy, màu xám, số sê ri 00487744, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 50%, trị giá 19.450.000 đồng;
- 01 (một) hộp nhựa đựng máy ốn cầm tay, màu xám, kích thước 40cm x 30 cm, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 50%, trị giá 50.000 đồng;
- 09 cục pin tiểu AA, hiệu Panasonic 1.5V AA chưa qua sử dụng, mới 100%, trị giá 22.500 đồng.
Tổng trị giá: 19.522.500 đồng.
Ngày 14/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố X ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Ngô Thiện T và Mạch V.
Cáo trạng số 108/CT-VKS ngày 21 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố X, tỉnh G đã truy tố bị cáo Ngô Thiện T, bị cáo Mạch V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
* Tại phiên toà sơ thẩm:
Bị cáo Ngô Thiện T, bị cáo Mạch V khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của Trung tâm Kỹ Thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 09/7/2018, Ngô Thiện T rủ và điều khiển xe mô tô biển số 69S1-6650 chở Mạch V đi tìm tài sản lấy trộm. Khi đến khu vực khóm T, phường Q, thành phố X, tỉnh G; thấy xe ô tô bán tải biển số 65A-003.20 của Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T đậu trên vĩa hè, cốp sau không đóng nên T dừng xe cho V đến mở cốp xe ô tô lấy trộm 01 máy đo tiếng ồn, 09 cục pin tiểu, 01 hộp nhựa màu xám bên trong có khẩu trang và găng tay y tế. Sau đó, T chở V đem tài sản trên đến căn nhà không có người ở tại khóm T, phường Q cất giấu. Trên đường đi, T ném bỏ khẩu trang và găng tay y tế.
Các bị cáo Ngô Thiện T và Mạch V thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án và cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm: Giữ nguyên truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Ngô Thiện T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Mạch V từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.
Về vật chứng: Xử lý theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 xe mô tô biển số 69S1-6650 của bị cáo T
Về phần trách nhiệm dân sự: Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu nên không đặt ra xem xét
Đối với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đồng ý theo Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến khác.
Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên đã truy tố và nhận thức được việc làm sai trái của bản thân, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị cáo Ngô Thiện T và bị cáo Mạch V bị Công an nhân dân thành phố X khởi tố về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại khu vực khóm T, phường Q, thành phố X, tỉnh G nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.
[2] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an nhân dân thành phố X, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[3] Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại nên về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[4] Sự vắng mặt của nguyên đơn dân sự Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Nguyễn Hồng N, Võ Quốc N có đơn xin vắng mặt tham gia xét xử ngày 06/11/2018; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Hoài P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai và làm rõ các tình tiết vụ án, đại diện Viện kiểm sát không ý kiến cũng như việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
- Về nội dung:
[5] Hành vi phạm tội:
Lời khai nhận tội của các bị cáo Ngô Thiện T và Mạch V tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra; phù hợp lời khai nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, tang vật thu được. Có đầy đủ căn cứ xác định: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 09/7/2018, tại khu vực khóm T, phường Q, thành phố X, tỉnh G; Ngô Thiện T và Mạch V đã có hành vi lén lút, lợi dụng sự sơ hở, chủ quan của nhân viên Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T để lấy trộm 02 hộp nhựa, 01 máy đo tiếng ồn và 09 cục pin tiểu theo Kết luận về việc xác định giá trị tài sản trong tố tụng hình sự số 70/KL-HĐ ngày 12/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố X tài sản có tổng giá trị 19.522.500 đồng.
[6] Đối với khẩu trang và găng tay y tế do không xác định số lượng, nhãn hiệu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để trưng cầu định giá tài sản cho nên không quy kết trách nhiệm đối với các bị cáo là có căn cứ.
[7] Xét về tính chất mức độ của hành vi phạm tội:
[7.1] Quyền sở hữu về tài sản của công dân là quyền sở hữu hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi trái pháp luật nhằm xâm phạm đến tài sản của người khác được xem là hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ bị xử lý kịp thời và nghiêm minh.
[7.2] Các bị cáo đều là những người trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và có điều kiện làm ăn chân chính nuôi sống bản thân, gia đình. Thế nhưng do tham lam, lười biếng và nghiện ma túy, muốn có nhiều tiền để tiêu xài và mua ma túy sử dụng mà không phải bỏ công sức lao động, các bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi mọi người ra sức lao động để nuôi sống bản thân, làm giàu cho gia đình, xã hội thì các bị cáo lại rủ rê lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác và sự vắng mặt của chủ quản lý tài sản để trộm cắp ngay giữa ban ngày một cách táo bạo. Hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính nguy hiểm cho xã hội, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do vậy khi lượng hình cần có hình phạt nghiêm với các bị cáo.
Trong vụ án có hai bị cáo cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội, mang tính đồng phạm nhưng không có sự câu kết chặt chẽ, tổ chức, bàn bạc, phân công cụ thể nhiệm vụ từng bị cáo; không có bị cáo giữ vai trò chủ mưu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm; cả hai bị cáo đều cùng nhau giúp sức, hỗ trợ để thực hiện; do đó đây chỉ là vụ án đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo có khác nhau cho nên cần phân hóa ra để xử lý như sau:
[7.3] Đối với Ngô Thiện T là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân đã có vợ con nhưng bị cáo lại không cố gắng lao động, tìm một việc làm chân chính nuôi sống bản thân và gia đình để trở thành một công dân tốt, một người chồng, người cha mẫu mực. Ngược lại, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài, bị cáo đã không ngần ngại rủ rê, lôi kéo bị cáo V cùng đi trộm cắp tài sản. Do đó cần áp dụng một mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú tạo điều kiện cơ quan điều tra nhanh chóng kết thúc vụ án. Đây được xem là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.
[7.4] Đối với bị cáo Mạch V, là người có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích. Lẽ ra, sau khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo phải thấy được hành vi sai trái của bản thân để từ đó phấn đấu, rèn luyện cố gắng lao động phụ giúp gia đình, tu dưỡng để trở thành một công dân có ích cho xã hội. Thế nhưng ngược lại, bị cáo tiếp tục ăn chơi lêu lỏng, tụ tập hút chích ma túy dẫn đến nghiện ngập và bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sau khi chấp hành xong, bị cáo lại không ý thức được những việc làm sai trái của mình để ăn năn hối cải, cố gắng tu dưỡng, lấy đó làm bài học để rèn bản thân, mỗi lúc bị cáo càng đi sâu vào con đường sai trái, tiếp tục vi phạm với tính chất mức độ ngày càng nặng hơn. Để có tiền tiêu xài, bị cáo đã không ngần ngại tham gia thực hiện hành vi phạm tội khi được Toàn rủ rê. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó cần phải có một mức án nghiêm đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú tạo điều kiện cơ quan điều tra nhanh chóng kết thúc vụ án. Đây được xem là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.
[8] Về biện pháp tư pháp: Các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại đến tài sản của Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T thì các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu hồi tài sản và giao trả cho Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T và không yêu cầu gì thêm; do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô biển số 69S1-6650 và giấy đăng ký xe do Phạm Văn M đứng tên là của bị cáo T đã mua của người khác nhưng chưa làm thủ tục sang tên và bị cáo đã dùng làm phương tiện phạm tội do đó cần tuyên bố tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo đã bị kết án buộc phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Thiện T và Mạch V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Đối với bị cáo Ngô Thiện T căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 47; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Đối với bị cáo Mạch V căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 47; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 136; Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử vắng mặt nguyên đơn dân sự Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Phạm Nguyễn Hồng N, Võ Quốc N, Trần Hoài P.
Tuyên xử:
[1] Xử phạt:
[1.1] Bị cáo Ngô Thiện T 01 (một) năm tù.
Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2018.
[1.2] Bị cáo Mạch V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2018.
[2] Xử lý vật chứng:
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô biển số 69S1-6650, số khung RNRWCH3UM91 114650, số máy RNRHC152FMH114650 của bị cáo Ngô Thiện T (hiện do Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố X quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 77/QĐ.VKS ngày 21/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố X).
[3] Về án phí hình sự sơ thẩm:
Buộc bị cáo Ngô Thiện T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Buộc bị cáo Mạch V phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo:
Các bị cáo Ngô Thiện T và Mạch V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Riêng thời hạn kháng cáo của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 127/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 127/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về