TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 126/2020/HS-PT NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 10/9/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2020/TLPT-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo Lê Thị Thu T và Lê Hồng D do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HSST ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Lê Thị Thu T; (My); Sinh ngày 06 tháng 4 năm 1993; tại TP Đà Nẵng; Nơi cư trú: Số: H05/22 đường Lê Đình T, Tổ 26, phường H, quận H, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Uốn tóc; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn C và bà Trần Thị H (đều còn sống); bị cáo chưa có chồng, có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2011 và nhỏ nhất 2016); Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Hồng D; (Tên gọi khác: Min); Sinh ngày 03 tháng 12 năm 1997; tại TP Đà Nẵng; Nơi cư trú: Số 622/10 Trần Cao V, tổ 32, phường X, quận T, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ ;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê H và bà Hồ Thị N (đều còn sống); bị cáo chưa có chồng con; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 8 năm 2019, do không có nghề nghiệp ổn định và cần tiền để tiêu xài cá nhân nên Lê Thị Thu T nảy sinh hành vi bán dâm để kiếm tiền tiêu xài cá nhân. T sử dụng ứng dụng mạng xã hội Zalo với nick name “T My” để đăng tin và tìm khách có nhu cầu mua dâm. Giá bán dâm mà T đặt ra là từ 300.000đ đến 400.000đ/lượt quan hệ tình dục.
Ngày 10 tháng 8 năm 2019, T gặp Trần Phạm N C và Lê Hồng D, đều là bạn của T. Qua nói chuyện, C và D biết T làm nghề bán dâm. C cùng D đề nghị môi giới, dẫn dắt khách cho T bán dâm để kiếm lời từ việc này thì T đồng ý. T, C và D thống nhất tỉ lệ ăn chia cho mỗi lần môi giới bán dâm thành công là 3/7 (C và D hưởng 30% tổng số tiền mà T bán dâm được, 70% còn lại T hưởng). C sử dụng zalo có tên: “Linh Đan”, còn D sử dụng zalo tên “Hà My” để đăng hình ảnh gợi cảm, tìm khách có nhu cầu mua dâm. Khi khách đồng ý mua dâm thì C và D sẽ nhắn tin số điện thoại của T để khách liên hệ T và thực hiện hành vi mua bán dâm. Sau khi tìm được khách mua dâm, T thường cùng khách đi vào các nhà nghỉ khác nhau trên địa bàn TP Đà Nẵng để quan hệ tình dục, sau khi bán dâm xong cho khách và nhận tiền từ khách mua dâm thì T chia tiền cho C và D đúng theo thỏa thuận trước đó.
Trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2019, T đã nhiều lần thực hiện hành vi bán dâm thông qua sự giới thiệu, dẫn dắt của C và D (T khai không nhớ chính xác số lần đã bán dâm, chỉ nhớ khoảng trên 50 lần). C khai đã làm trung gian, dẫn dắt khách để T thực hiện hành vi bán dâm khoảng trên 50 lần còn D khai đã trực tiếp làm trung gian, dẫn dắt khách để T thực hiện hành vi bán dâm 02 lần và nhiều lần khác (không nhớ rõ cụ thể) đi chung với C để cùng hưởng lợi việc C môi giới dẫn dắt khách cho T bán dâm. Số tiền mà C và D đã được hưởng lợi từ việc môi giới bán dâm cho T là khoảng 6.000.000đ (Sáu triệu đồng), số tiền này C và D chia nhau tiêu xài cá nhân hết. Từ cuối tháng 10 năm 2019, thấy số lượng người mua dâm ít nên D không tiếp tục thực hiện việc môi giới mại dâm cho T.
Khoảng đầu tháng 11 năm 2019, do thấy số lượng người mua dâm ít nên C chỉ cho T cách rủ rê người khác vào nhà nghỉ để quan hệ tình dục nhưng không nói rõ T là người bán dâm, sau khi quan hệ tình dục xong, lợi dụng lúc khách ngủ sẽ trộm cắp điện thoại hoặc nói với khách giá bán dâm là 1.000.000đ (Một triệu đồng) để khách không có tiền trả và phải đưa điện thoại hoặc tài sản có giá khác cho T để T cầm cố, bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Khi T quan hệ tình dục xong báo lại cho C biết địa chỉ cụ thể, C sẽ đến cùng T đe dọa, gây sức ép tinh thần buộc họ phải đưa tài sản. C sẽ có nhiệm vụ tìm khách mua dâm cho T để T tìm cách chiếm đoạt tài sản của họ. Nghe vậy T đồng ý.
Bằng thủ đoạn như trên, T và C bàn bạc rồi thực hiện 01(một) vụ trộm cắp tài sản và 01(một) vụ cưỡng đoạt tài sản của người khác. Cụ thể như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 08 tháng 11 năm 2019, C sử dụng ứng dụng điện thoại Zalo có tên: “Linh Đan” để nhắn tin làm quen với anh Trần Minh N rồi rủ anh N đi chơi với mục đích cùng T tìm cách chiếm đoạt tài sản của anh N. Khi N đồng ý thì C nhắn số điện thoại của T để anh N tự liên hệ. Khi thấy anh N đã đồng ý đi chơi thì C nói với T: “Tí nữa, mi rủ anh này đi nhậu để anh say đi. Một là xin tiền, hai là lấy điện thoại”. T đồng ý. Sau đó, anh N đến địa chỉ 630 đường Trần Cao V, phường X, quận T, TP Đà Nẵng gặp T và chở T đi chơi. Đến 00 giờ, ngày 09 tháng 11 năm 2019, T tìm cách và rủ rê anh N đi nhà nghỉ để quan hệ tình dục, anh N đồng ý và chở T đến nhà nghỉ 681 đường Nguyễn Tất Thành, phường X, quận T, TP Đà Nẵng để thuê phòng. Tại đây, T và anh N đã quan hệ tình dục với nhau, sau đó cả hai cùng đi ngủ. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày T thức dậy, lợi dụng lúc anh N đang ngủ, T đã lấy trộm 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A20 của anh N rồi trốn khỏi nhà nghỉ. Về đến nhà, T nhắn tin cho C với nội dung đã lấy trộm được 01(một) chiếc điện thoại hiệu Samsung của anh N thì C nhắn tin trả lời: “Tắt điện thoại đi, mai đem đi bẻ khóa”. Đến 08 giờ ngày 9 tháng 11 năm 2019, T cùng C mang điện thoại Samsung A20 trộm được đi bẻ khóa mật khẩu, rồi đem tới cửa hàng cầm đồ Kim Linh bán cho anh Lữ Mạnh H (là chủ cửa hàng) với giá 1.800.000đ (Một triệu, tám trăm ngàn đồng). Khi cầm cố điện thoại, T giữ lại sim của chiếc điện thoại 0586246652 của anh N, đến khi làm việc với cơ quan Công an, T đã tự nguyện giao nộp lại. Chiếc điện thoại Samsung A20, anh H đã bán lại cho một khách hàng (không rõ nhân thân lai lịch) nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không thu hồi được. Số tiền có được, T chia cho C 800.000đ (Tám trăm ngàn đồng), còn T giữ 1.000.000đ (Một triệu đồng). Cả hai sử dụng số tiền trên để tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá tài sản ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản quận Thanh Khê xác định: Điện thoại Samsung A20 có giá 3.300.000đ (Ba triệu, ba trăm ngàn đồng).
Khoảng 15 giờ, ngày 09 tháng11 năm 2019, C sử dụng Zalo tên “T My” (nick zalo này C và T cùng dùng chung) để nhắn tin làm quen với anh Lê Nguyễn Anh N và rủ N đi chơi cũng với mục đích cùng T tìm cách chiếm đoạt tài sản của anh N. Khi anh N đồng ý thì C nhắn số điện thoại của T để anh N liên hệ. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, anh N đến và gặp T tại rạp chiếu phim Star Light ở số 46 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. T rủ anh N vào xem phim tuy nhiên anh N nói không có tiền, T liền nói: “Cứ coi đi, em trả tiền”, anh N đồng ý rồi cùng T xem phim tại đây. Lúc này C và D cũng đi cùng và ngồi kế bên T. Cả 04 người cùng ngồi xem phim. Do T biết được trong người anh N không còn tiền nên nói nhỏ với C: “N không có tiền, vụ này lấy sao?”; C trả lời: “Nuốt điện thoại, ăn đậm đi” nghĩa là nói T chiếm đoạt điện thoại của N; C nói tiếp: “Cứ đi đi vào nhà nghỉ nào thì nhắn tin để ta tới đó” nghĩa là C sẽ đến nhà nghỉ cùng T gây áp lực buộc anh N giao điện thoại. Sau khi xem phim xong, anh N định đi về nhà thì T ngồi lên xe máy của N rồi rủ rê N vào nhà nghỉ để quan hệ tình dục với nhau và tìm cách chiếm đoạt điện thoại của anh N theo nội dung như đã bàn bạc với C. Anh N nói: “Không có tiền, sao đi”; T nói “cứ đi đi”. Anh N đồng ý và chở T đến nhà nghỉ Phương Anh 6 ở số 725 đường Nguyễn Tất Thành, phường X, quận T, TP Đà Nẵng thuê phòng. Tại nhà nghỉ, T cho anh N quan hệ tình dục. Sau khi quan hệ tình dục xong, anh N đi vào tắm, lúc này T gọi điện thoại cho C và nói: “Ê xong rồi tụi bay tới đi” nhằm gọi C đến cùng gây sức ép đối với anh N. C chở D đi cùng nhưng D không biết nội dung bàn bạc giữa T và C trước đó. Đối với anh N nghe thấy T nói như trên nên bước ra khỏi nhà tắm thì thấy T đứng tại cửa ra vào của phòng và nói: “Bây giờ chơi xong rồi, có gì trả đây không”; anh N trả lời: “Em nay không có tiền” (do anh N biết T nhiều tuổi hơn hơn nên xưng hô chị em); T nói: “Bảo người khác lên trả tiền cho mày, không thì đưa đồ khác, hoặc là bị đánh”. Vì lo sợ bị đánh và sợ T làm lớn chuyện ảnh hưởng đến danh dự nên anh N đưa 01 (một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Note 7 cho T. Sau đó, T đi xuống nhà nghỉ, thấy C và D đang đứng trước cửa nhà nghỉ, T giả vờ cầm cố điện thoại cho C nhưng C không nhận cầm cố. Sau đó, T gọi xe Grap bỏ đi, còn anh N đến Công an phường X, quận T trình báo vụ việc. Sau khi chiếm đoạt được điện thoại Xiaomi Red mi Note 7, T đem cầm cố tại cửa hàng cầm đồ Kim Linh cho anh Lữ Mạnh H (chủ cửa hàng) với giá 1.400.000đ (Một triệu, bốn trăm ngàn đồng) và chia cho C 700.000đ (Bảy trăm ngàn đồng). Cả hai sử dụng tiền để tiêu xài cá nhân hết. Sau khi biết anh N trình báo vụ việc lên cơ quan Công an, do lo sợ nên T đã đến tiệm cầm đồ Kim Linh chuộc lại điện thoại Xiaomi Red mi Note 7 của anh N, khi làm việc với cơ quan điều tra, T đã tự nguyện giao nộp lại chiếc điện thoại.
Tại kết luận định giá tài sản ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản quận Thanh Khê xác định điện thoại Xiaomi Redmi Note 7 có giá 3.600.000đ (Ba triệu, sáu trăm ngàn đồng).
Tại Bản án sơ thẩm số 58/2020/HSST ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cưỡng đoạt tài sản” ; bị cáo Lê Hồng D phạm tội “Môi giới mại dâm”.
Về hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 173; điểm a khoản 2 Điều 170, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Lê Thị Thu T 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội bị cáo Lê Thị Thu T phải chấp hành là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Căn cứ điểm b, d khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Trần Phạm N C, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo Bản án.
Ngày 16/6/2020 bị cáo Lê Thị Thu T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ngày 12/6/2020 bị cáo Lê Hồng D có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xét xử theo trình tự phúc thẩm để xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa các bị cáo Lê Thị Thu T và Lê Hồng D đều giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, trong đó bị cáo T xin được giảm nhẹ hình phạt và bị cáo D xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục: Đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Thu T và Lê Hồng D theo đúng trình tự thủ tục tố tụng và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung: Xét về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng: Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HSST ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Lê Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 170 BLHS, và xét xử bị cáo Lê Hồng D về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm b, d khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS mà các bị cáo được hưởng qua đó áp dụng Điều 54 BLHS để xử phạt bị cáo T 30 (ba mươi) tháng tù cho cả hai tội danh và xử phạt bị cáo D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp, không nặng. Sau khi xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thị Thu T: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Thị Thu T khai nhận: Trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2019 bị cáo cùng với Trần Phạm N C bàn bạc với nhau cách rủ rê người khác vào nhà nghỉ để T quan hệ tình dục, sau đó lợi dụng lúc khách ngủ sẽ trộm cắp hoặc nói giá bán dâm là 1.000.000đ (Một triệu đồng) để khách mua dâm không có tiền trả, sau đó T buộc khách mua dâm phải đưa điện thoại hoặc tài sản có giá trị khác nhằm chiếm đoạt. Trong đó, C là người có nhiệm vụ tìm khách mua dâm, còn T có nhiệm vụ bán dâm xong tìm cách chiếm đoạt tài sản của họ. Với thủ đoạn trên trong ngày 08 tháng 11 năm 2019, sau khi quan hệ tình dục với anh Trần Minh N xong, lợi dụng lúc anh N đang ngủ, bị cáo T đã lấy trộm 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung A20 của anh N, giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.300.000đ (Ba triệu, ba trăm ngàn đồng) và tiếp sau đó ngày ngày 09 tháng 11 năm 2019, C nhắn tin làm quen với anh Lê Nguyễn Anh N và rủ đi chơi nhằm mục đích cùng T tìm cách chiếm đoạt tài sản, khi anh N đồng ý, C nhắn số điện thoại của T để anh N liên hệ. Khi gặp nhau, T biết anh N không có tiền nhưng T và C có trao đổi, thông tin với nhau và T vẫn rủ rê anh N vào nhà nghỉ để quan hệ tình dục. Khi anh N đồng ý và chở bị cáo đến nhà nghỉ Phương Anh 6 tại số 725 Nguyễn Tất Thành, phường X, quận T, TP Đà Nẵng. Sau khi quan hệ tình dục xong, anh N đi vào tắm thì bị cáo gọi điện thoại cho C báo tin, đồng thời bị cáo nói với anh N: “Bảo người khác lên trả tiền cho mày, không thì đưa đồ khác, hoặc là bị đánh”. Vì lo sợ bị đánh và lớn chuyện ảnh hưởng đến danh dự nên anh N đưa cho T 01(một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Note 7, giá trị tài sản chiếm đoạt được là:
3.600.000đ (Ba triệu, sáu trăm ngàn đồng). sau khi chiếm đoạt được các tài sản của bị hại, bị cáo mang đi bán lấy tiền chia nhau cùng với C để tiêu xài.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Lê Hồng D: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo D khai nhận trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2019 bị cáo có cùng tham gia với C làm trung gian, dẫn dắt khách để Lê Thị Thu T thực hiện hành vi mua bán dâm với khách, trong đó bị cáo chỉ môi giới 02 (hai) lần cho T bán dâm, việc thỏa thuận thống nhất về cách thức tìm kiếm khách mua dâm, về tỉ lệ ăn chia cho mỗi lần môi giới T bán dâm thành công thì giữa C và bị cáo có bàn trước, theo thỏa thuận tỷ lệ ăn chia là 3/7, C và bị cáo hưởng 30%, T hưởng 70% trên số tiền mà T bán dâm được, còn tỷ lệ ăn chia giữa bị cáo và C là 5/5. Số tiền mà C và bị cáo được hưởng lợi từ việc môi giới bán dâm cho T là khoảng 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) chia nhau tiêu xài cá nhân.
[3] Với hành vi nêu trên, các bị cáo T, D thừa nhận Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HSST ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Lê Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 và điểm a khoản 2 Điều 170 BLHS và bị cáo Lê Hồng D về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm b, d khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật, không oan. Tuy nhiên, các bị cáo cho rằng, hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo là có phần nghiêm khắc, vì vậy, bị cáo T xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt, và bị cáo D xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
[4]. Xét nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Thu T và Lê Hồng D, HĐXX thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, mà còn xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, đời sống văn hoá của người Việt Nam, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, vì vậy, đối với các bị cáo cần phải bị xử phạt một mức án nghiêm khắc, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù cách ly các bị ra ngoài xã hội một thời gian nhằm mục đích răn đe, cải tạo, giáo dục riêng các bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội là cần thiết. Xét Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của từng bị cáo, đồng thời áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, qua đó áp dụng Điều 54 BLHS để xử phạt bị cáo T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù cho cả 02 tội “Trộm cắp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản” và xử phạt bị cáo D 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” là dưới mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật quy định truy tố cho từng bị cáo là phù hợp, không nặng. Tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Thu T và Lê Hồng D, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Thu T và Lê Hồng D, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ: Điểm a khoản 2 Điều 173; điểm a khoản 2 Điều 170, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thu T; (My): 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội bị cáo Lê Thị Thu T phải chấp hành là : 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.
3. Căn cứ: Điểm b, d khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng D: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.
4.Về án phí: Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
5.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 126/2020/HS-PT ngày 10/09/2020 về tội trộm cắp tài sản và cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 126/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về