Bản án 1258/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn

  TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1258/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 412/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 336/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 342/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Hồng Đ, sinh năm 1985 (có mặt);

Hộ khẩu thường trú: Số 113 đường Phú Hiệp, Tổ S, ấp P, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: Số 780 đường Trung Lập, ấp S, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Phùng Tấn P, sinh năm 1979 (vắng mặt);

Hộ khẩu thường trú: Số 113 đường Phú Hiệp, Tổ S, ấp P, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn nộp ngày 17/3/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng Đ trình bày:

Bà và ông Phùng Tấn P tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân năm 2006, đã được Ủy ban nhân dân xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 69, quyển số 01/2006 ngày 12/12/2006. Sau một khoảng thời gian sống chung thì bà và ông P bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do không hiểu nhau, khác biệt về cách sống và quan điểm sống, ông P không chăm lo cho gia đình và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, bà cũng đã không còn sống chung với ông P. Sau những mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn, bà và ông P không còn tình cảm với nhau, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Phùng Tấn P.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Phùng Thị Tú D, sinh ngày 06/6/2007 và Phùng Huỳnh Anh T, sinh ngày 25/01/2016.

Hiện nay trẻ Phùng Huỳnh Anh T đang sống chung với bà nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi; trẻ Phùng Thị Tú D có nguyện vọng sống chung với ông P nên bà đồng ý giao trẻ D cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng. Bà không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị Hồng Đ xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà Huỳnh Thị Hồng Đ xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính), giấy khai sinh, trích lục khai sinh (bản sao), sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân (bản photo).

Ông Phùng Tấn P đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập tham gia phiên tòa xét xử đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông P.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Phùng Tấn P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Theo nội dung đơn khởi kiện có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn có nơi cư trú tại xã Phú Mỹ Hung, huyện Củ Chi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi.

Bị đơn ông Phùng Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông P.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Hồng Đ và ông Phùng Tấn P tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 69, quyển số 01/2006 ngày 12/12/2006 nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu của bà Huỳnh Thị Hồng Đ xin ly hôn với ông Phùng Tấn P là có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ: Theo lời trình bày của bà Đ thì mâu thuẫn giữa bà và ông P là trầm trọng và không thể hàn gắn. Cuộc sống vợ chồng của ông bà không hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống, cách sống, ông P không chăm lo cho gia đình và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Hơn nữa, hiện tại bà Đ không còn chung sống với ông P. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông Phùng Tấn P không đến Tòa án theo giấy triệu tập của Tòa án chứng tỏ ông P không có thiện chí để đoàn tụ gia đình.

Ông Phùng Tấn P đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không đến và cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến hay bất cứ tài liệu, chứng cứ chứng minh có liên quan đến vụ án. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông P căn cứ theo các tài liệu chứng cứ mà phía nguyên đơn cung cấp và chứng cứ mà Tòa thu thập được theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự là có cơ sở.

Vì vậy, có cơ sở xác định tình cảm vợ chồng giữa bà Đ và ông P không còn, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung của hai người không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Phùng Thị Tú D, sinh ngày 06/6/2007 và Phùng Huỳnh Anh T, sinh ngày 25/01/2016.

Hiện nay trẻ Phùng Huỳnh Anh T đang sống chung với bà Đ nên giao cho Đ được tiếp tục nuôi; tại bản tự khai ngày 12/10/2020 trẻ Phùng Thị Tú D có nguyện vọng sống chung với ông P nên giao trẻ D cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng. Bà Đ không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi, do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nghĩa vụ dân sự chung: Nguyên đơn xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Do ông Phùng Tấn P vắng mặt tại phiên tòa nên ông P có tranh chấp về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần buộc bà Huỳnh Thị Hồng Đ phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng Đ.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Hồng Đ được ly hôn với ông Phùng Tấn P.

Giấy chứng nhận kết hôn số 69, quyển số 01/2006 ngày 12/12/2006 của Ủy ban nhân dân xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Huỳnh Thị Hồng Đ và ông Phùng Tấn P không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao con chung tên Phùng Huỳnh Anh T, sinh ngày 25/01/2016 cho bà Huỳnh Thị Hồng Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung tên Phùng Thị Tú D, sinh ngày 06/6/2007 cho ông Phùng Tấn P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận việc bà Đ không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi, do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.

Ông P và bà Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định tự thỏa thuận.

Nghĩa vụ dân sự chung: Nguyên đơn xác định không có.

Nếu ông Phùng Tấn P có tranh chấp về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

4. Án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) buộc bà Huỳnh Thị Hồng Đ phải nộp nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0083779 ngày 12/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1258/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1258/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về