Bản án 125/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 125/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dânthành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 141/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Đình N, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 03/6/1977; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 8, phường GS, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đoàn Đình H, sinh năm 1940, con bà: Chu Thị T, sinh năm 1948; Vợ, con chưa có; Gia đình có 4 chị em, bị cáo là con thứ tư; Tiền án: 1 (Tại Bản án số 339/2018/HS-ST ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã xử phạt Đoàn Đình N 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Chấp hành xong hình phạt ngày 09/10/2019).

Tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 125/QĐ/XPVPHC ngày 02/01/1999 của Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt 100.000 đồng về hành vi "Trộm cắp tài sản công dân". Ngày 11/01/1999 nộp phạt xong.

1 + Tại Bản án số 176/HSST ngày 13/9/1999 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Đoàn Đình N 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản xã hội chủ N". Tháng 03/2003 nộp án phí xong.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 142/QĐ/XPHC ngày 17/02/2009 của Công an phường Phan Đình Phùng, Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt 200.000 đồng về hành vi "Trộm cắp vặt". Ngày 18/02/2009 nộp phạt xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2020 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa).

* Những người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Đoàn Đình H, sinh năm 1940.

Trú tại tổ 08, phường GS, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị Đ – sinh năm 1967 Địa chỉ: Tổ 7, phường PĐP, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 18/12/2020 tổ công tác của Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 7 phường PĐP thì phát hiện một người đàn ông đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20M8-8417 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, người đàn ông trên khai tên là Đoàn Đình N và khai nhận đang cất giấu ma túy. Kiểm tra người N, tổ công tác phát hiện tại túi quần phía sau bên phải N đang mặc có 01 gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng (N khai là Heroine). Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 20M8-8417.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của N có khối lượng là 0,205 gam. Niêm phong toàn bộ số chất bột màu trắng vào trong bì ký hiệu N1 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 75/KL-KTHS ngày 26/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu N1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,205 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Đoàn Đình N khai nhận: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 18/12/2020, N một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20M8-8417 đi từ nhà đến khu vực đầu cầu MB thuộc phường QV, thành phố T mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, N gặp và nhờ một người đàn ông tên T (là bạn nghiện) mua hộ 100.000 đồng ma túy. Khoảng 15 phút sau T quay lại đưa cho N 01 gói giấy màu vàng bên trong chứa Heroine. Sau khi nhận gói ma túy thì N cất gói ma túy vào túi quần phía sau bên phải, rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực siêu thị MC thuộc phường PĐP, thành phố T thì bị tổ công tác Công an phường PĐP phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 20M8 - 8417. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô này do ông Đoàn Đình H, sinh năm 1940, trú tại tổ 08, phường GS, thành phố Thái Nguyên (là bố đẻ của N) là chủ sở hữu hợp pháp. Ngày 18/12/2020 ông H cho N mượn xe mô tô, khi cho mượn xe, ông H không biết việc N đã sử dụng chiếc xe mô tô này vào việc đi mua ma túy. Ngày 09/3/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20M8 - 8417 cho ông H quản lý và sử dụng.

- 01 bì niêm phong ký hiệu N1 bên trong chứa Heroine (mẫu hoàn lại sau giám định). Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 155/CT-VKSTPTN, ngày 30/3/2021của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đoàn Đình N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Đình N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự,đ ề nghị xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu N1.

-Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Đoàn Đình N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hồi 10 giờ ngày 18/12/2020 tại khu vực đường MC thuộc tổ 07, phường PĐP, thành phố T, tổ công tác của Công an phường PĐP, thành phố T bắt quả tang Đoàn Đình N đang có hành vi tàng trữ 0,205 gam Heroine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lơi khai nhân tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lơi khai cua bi cao tai cơ quan điêu tra, phù hợp vơi lơi khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kêt luân giam đinh và những tài liệu , chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo Đoàn Đình N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã có tiền án về cùng loại tội và bị xử phạt hành chính nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại Bản án số 339/2018/HS - ST ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", bản án này bị cáo chưa được xóa án tính, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS:20M8 - 8417; số khung RLHJC4319BY 017018, số máy: JC43E1550 1550769, bị cáo sử dụng đi mua ma túy, nhưng chiếc xe này là của ông Đoàn Đình H (bố đẻ bị cáo). Khi mượn xe của ông H, bị cáo không nói cho ông H biết bị cáo đi mua ma túy. Việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy, ông Đoàn Đình H hoàn toàn không biết nên ngày 19/3/2021 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã trả cho ông H quản lý, sử dụng là phù hợp.

- Đối với phong bì niêm phong kí hiệu N1(bên trong có chứa Heroine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4]. Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo Đoàn Đình N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo Đoàn Đình N khai nhờ 01 người đàn ông tên T là bạn nghiện (không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ ở đâu) mua hộ ma túy ở khu vực đầu cầu MB thuộc phường QV, thành phố T. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người đàn ông trên nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Đình N phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Đoàn Đình N 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu N1.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2021 giữa cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phốThái Nguyên).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Đoàn Đình N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:125/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về