Bản án 125/2019/HS-PT ngày 23/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 125/2019/HS-PT NGÀY 23/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 85/2018/HSPT ngày 13/02/2018 đối với bị cáo Trịnh Tùng B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2018/HSST ngày 10/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trịnh Tùng B (tên gọi khác: Tý T); giới tính: nam; sinh năm 1968 tại Đồng Tháp; trú tại: 34X/6X Phan Văn T, Phường 1X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: không; con ông Trịnh Lạc H (chết) và bà Nguyễn Thị V (chết); hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và có một người con (sinh năm 1987);

* Tiền án:

1/ Ngày 24/5/1989, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” (theo Bản án 57/HSST ngày 24/5/1989), bị cáo chấp hành xong hình phạt vào tháng 9/1990.

2/ Ngày 11/12/1992, bị cáo bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp Tài sản của công dân” (theo bản án số 933/HSST ngày 11/12/1992).

3/ Ngày 14/11/1998, bị cáo bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 14 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 16 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 20 năm tù (theo bản án số 2363/HSST ngày 14/11/1998), bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 20/6/2013.

* Tiền sự:

Ngày 16/9/2017, bị cáo bị Công an Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức xử phạt là phạt tiền (theo Quyết định số 24592/QĐ-XPHC ngày 16/9/2017).

* Nhân thân:

1/ Năm 1986, bị cáo bị Công an quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”, bị phạt đưa đi cải tạo trong thời hạn 01 năm.

2/ Năm 1987, bị cáo bị Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi “Trộm cắp tài sản của công dân”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/06/2017 (có mặt tại phiên tòa).

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Phạm Minh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 00 ngày 24/06/2017 Trịnh Tùng B điều khiển xe gắn máy hiệu Furture biển số 59L1-740.58 rủ Phạm Minh H qua Quận 2 để thuê nhà trọ. Khi cả hai đang trú mưa cạnh nhà số 33, đường 19, khu phố 2, phường Bình An, Quận 2 thì lúc này anh Nguyễn Văn T là nhân viên công ty Trách nhiệm hữu hạn Hera Hùng Thiên đi làm về đến công ty và để xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 76U1-006.26 dưới lòng đường trước số nhà 33 rồi lên xe taxi đi ráp rèm cửa cho khách hàng. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, chị Lê Thị Thanh T1 cũng là nhân viên công ty Hera Hùng Thiên ra lấy xe về nhưng không mở được khóa xe nên nhờ B mở và đẩy xe máy của anh T lên vỉa hè trước cửa công ty. Tiếp sau đó B rủ H trộm cắp chiếc xe gắn máy của anh T thì H đồng ý nên B đã dùng chìa khóa xe của B mở khóa xe của anh T rồi điều khiển xe về hướng cầu Sài Gòn qua quận Bình Thạnh còn H điều khiển xe của B theo cùng. Khi chiếm đoạt được xe máy thì cả B và H đã bán xe này cho một người tên Nguyễn Ngọc L với giá 3.000.000 đồng.

Đến ngày 25/06/2017, H mua bộ đoản của người đàn ông tên Tuấn (không rõ lai lịch) với giá 200.000 đồng và đưa cho B cất giữ, còn B đưa lại cho H giữ 02 đầu đoản để trong ví da màu đen và B giữ 01 đầu đoản và 01 cờ lê hình chữ L. Sau đó, H điều khiển xe máy hiệu Honda Furture biển số 59L1-740.58 chở B qua Quận 2 tìm nhà để thuê phòng trọ.

Vào khoảng 18 giờ 30 cùng ngày, anh Huỳnh Tấn T3 điều khiển xe gắn máy hiệu Air Blade biển số 59B1-309.31 chở vợ là chị Nguyễn Thị Minh T4 đến Trung tâm mắt kính Sài Gòn tại địa chỉ số 6/4 Trần Não, khu phố 3, phường Bình An, Quận 2 để mua kính và anh T3 dựng xe máy phía trước, khóa cổ xe nhưng không có người trông coi. Khi đó, H và B đến rồi dựng xe sát bên cạnh xe của anh T3 và H ngồi lại trên xe còn B đi vào trong cửa hàng yêu cầu sửa gọng kính bị hư hỏng. Lúc này, anh Vũ Văn P là chủ cửa hàng đang đo mắt cho chị T4 nên nói B chờ thì B đi ra phía ngoài và ngồi lên yên xe của anh T3 và quan sát thấy xe không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp xe. Tiếp đó, B dùng một dụng cụ để phá khóa rồi dùng hai tay bẻ ổ khóa và chiếm đoạt chiếc xe rồi điều khiển xe chạy về hướng ngã ba đường Trần Não và đường Mai Chí Thọ, đối với H khi lùi xe máy xuống đường để chạy theo B thì bị anh P phát hiện và chạy ra nắm lấy đuôi xe giật mạnh làm H ngã xuống đường. H đứng dậy bỏ chạy bộ được khoảng 30m thì bị anh P giữ lại và báo Công an phường Bình An giải quyết.

Về phía Trịnh Tùng B, sau khi vứt bỏ biển số xe xuống sông Sài Gòn thì quay lại Quận 2 để tìm H thì bị Công an Quận 2 phát hiện mời về làm việc.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 165/HĐĐGTS-TCKH ngày 11/08/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 2 thì giá trị chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 79U1-006.26 là 10.000.000 đồng và giá trị chiếc xe máy hiệu Honda Airblade biển số 59B1-309.31 là 30.000.000 đồng, tổng giá trị 02 chiếc xe máy là 40.000.000 đồng.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày 10/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Trịnh Tùng B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Trịnh Tùng B 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/06/2017.

Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt Phạm Minh H 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã sửa đổi bổ sung năm 2009; đồng thời bản án cũng tuyên về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý về tiền thu lợi bất chính, vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 10/01/2018 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 13/01/2018 bị cáo Trịnh Tùng B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trịnh Tùng B khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích hành vi của bị cáo theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Trịnh Tùng B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” đối với các bị cáo là thiếu sót. Tuy nhiên, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo là phù hợp nên không cần phải sửa bản án sơ thẩm. Do vậy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Tùng B và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 16 giờ 00 ngày 24/06/2017, tại trước nhà số 33, đường 19, khu phố 2, phường Bình An, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Minh H đứng cảnh giới cho Trịnh Tùng B mở khóa xe máy hiệu Furture biển số 59L1-740.58 của anh Nguyễn Văn T. Sau đó, cả hai bán xe máy của anh T cho một người tên Nguyễn Ngọc L với giá 3.000.000 đồng. Theo Kết luận định giá thì chiếc xe này có giá trị 10.000.000 đồng.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút 25/06/2017, trước Trung tâm mắt kính Sài Gòn tại địa chỉ số 6/4 Trần Não, khu phố 3, phường Bình An, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, H là người cảnh giới để B lén lút bẻ khóa xe biển số 59B1–309.31 của anh T3. Khi chiếm đoạt được xe của anh T3 thì B điều khiển xe chạy về hướng đường Trần Não và đường Mai Chí Thọ, tháo biển số xe rồi vứt bỏ xuống sông Sài Gòn, còn H điều khiển xe biển số 59L1-740.58 chạy theo B thì H bị bắt giữ.

Về phía B, sau khi chạy ra cầu Sài Gòn không thấy H nên quay lại tìm thì bị bắt giữ. Theo Kết luận định giá thì chiếc xe này có giá trị 30.000.000 đồng.

Với các hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trịnh Tùng B về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo B đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” (năm 1989), “Cướp tài sản của công dân” (năm 1992) và “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” (năm 1998) nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 để xét xử bị cáo B là có cơ sở.

[2] Ngày 10/01/2018, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 13/01/2018 bị cáo Trịnh Tùng B làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là trong hạn luật định nên hợp lệ.

[3] Xét nội dung kháng cáo: bị cáo Trịnh Tùng B đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 chiếc xe gắn máy có giá trị 10.000.000 đồng và 30.000.000 đồng, tổng cộng là 40.000.000 đồng, đồng thời bản thân bị cáo đã có tiền án, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo.

[4] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo B có tình tiết giảm nhẹ là thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải và tình tiết giảm nhẹ này thì Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo. Ngoài ra các bị cáo có tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng đối với các bị cáo là tH sót.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo B. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài liệu nào để xem xét là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Xét hành vi vi phạm, tính chất, mức độ của hành vi và hậu quả xảy ra cùng tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên thì mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đi với tình tiết tăng nặng nêu trên mà Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng, nhưng xét thấy mức án đã tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp nên không cần thiết phải sửa bản án sơ thẩm để bổ sung tình tiết tăng nặng nêu trên, nhưng cần rút kinh nghiệm.

[5] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Tùng B và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Trịnh Tùng B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Trịnh Tùng B (tên gọi khác: Tý T) 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2017.

- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HS-PT ngày 23/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:125/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về