TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 125/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19/9/2017 tại Nhà văn hóa Bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 134/2017/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Lò Văn K (tên gọi khác: không), sinh ngày 03/9/1964 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Trú tại: Bản C, phường A, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 02/12; Con ông Lò Văn L (đã chết) và bà Cầm Thị K, sinh năm 1930; Có vợ là Quàng Thị H, sinh năm 1970 và 02 con (con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1992); Không tiền án, tiền sự; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/5/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Lò Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 16 giờ 05 phút ngày 02/5/2017 tại khu vực bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Lò Văn K bị tổ công tác phối hợp gồm Công an phường Tô Hiệu và Công an phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói được gói bằng giấy trắng có dòng chữ bên trong có chất bột màu trắng (Lò Văn K tự giác lấy trong lòng bàn tay trái giao nộp); 02 chiếc xilanh nhựa loại 03ml/cc + 01 ống nước cất Novocain; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Flybec, màu đen và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa Wave alpha màu vàng, BKS 26B1-204.01.
Quá trình điều tra, Lò Văn K khai nhận:
Lò Văn K là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 02/5/2017 Lò Văn K gọi điện thoại cho một người đàn ông tên G, khi nói chuyện G bảo có 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) rủ K đi mua ma túy để sử dụng. K đồng ý và mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha BKS: 26B 1-204.01 của con dâu là Lò Thị T, sinh năm 1993, nơi ĐKNKTT: Bản C, phường A, thành phố Sơn La đi từ nhà thuộc bản C, phường A, thành phố Sơn La xuống khu vực Bến xe khách Sơn La thuộc tổ 1, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La để đón G. G đưa cho K 200.000đ và hẹn nhau sau khi mua được ma túy thì vào rừng ma ở bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La để sử dụng. K chở G đến rừng ma đợi, còn K điều khiển xe mô tô quay lại khu vực
Bến xe khách Sơn La tìm gặp và mua được của một người đàn ông tên H 01 gói hêrôin với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được hêrôin, K quay lại chỗ hẹn với G ở khu rừng ma thuộc bản Cang, phường Chiềng Sinh, trên đường đi thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng thu giữ.
Ngày 02 tháng 5 năm 2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: 01 gói giấy màu trắng có chữ màu đen, bên trong có chứa cục, bột màu trắng thu của Lò Văn K khi bắt quả tang có trọng lượng 0,27 gam; lấy 0,1 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, ký hiệu LK1; còn lại 0,17 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu LK2.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã ra Quyết định trưng cầu giám định chất ma túy số 142. Tại Kết luận giám định số 478/KLMT ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu LK1 là chất ma túy; Loại chất hêrôin; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,27gam; Loại chất hêrôin”.
Về nguồn gốc số hêrôin bị thu giữ: Bị cáo Lò Văn K khai do một người đàn ông tên G đưa cho K 200.000đ để đến khu vực Bến xe khách Sơn La gặp và mua của một người đàn ông tên H. Bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của G, H. Căn cứ vào lời khai của Lò Văn K, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành xác minh tại phường Chiềng Sinh và phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La nhưng không có ai tên là G và H có đặc điểm như lời khai của bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.
Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 90/KSĐT ngày 16/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lò Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/20017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt Lò Văn K từ 20 đến 24 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn K - Tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 02/5/2017 tại bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + 01 mảnh giấy màu trắng có chữ màu đen; mẫu lưu kho ký hiệ LK2=0,17 gam”, mặt sau có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong; 01 (một) chiếc xi lanh loại 3ml/cc chưa qua sử dụng; 01 (một) ống Novocain chưa qua sử dụng.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Flybee màu đen, số Imei 353015012521796 qua sử dụng.
Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn K nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Do nghiện chất ma túy, ngày 02/5/2017, Lò Văn K đã có hành vi cất giấu trái phép 0,27 gam hêrôin nhằm mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:
- Lời khai nhận tội của bị cáo;
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 50 phút ngày 02/5/2017 tại bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Lò Văn K cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy màu trắng có chữ màu đen, bên trong có chứa cục, bột màu trắng có trọng lượng 0,27 gam; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 478/KLMT ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu LK1 là chất ma túy; Loại chất hêrôin; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,27gam; Loại chất hêrôin”.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Cà Văn P sinh năm 1983, trú tại bản C, phường S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.
Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Lò Văn K phạm tội với trọng lượng 0,27 gam hêrôin, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 03 tiền án tuy đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 03 tiền án, trong đó có 02 tiền án về tội phạm liên quan đến ma túy (đã được xóa án tích).
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Trong khi lượng hình, hội đồng xét xử có xem xét áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội theo quy định tại khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/20017 của Quốc hội khóa 14. Theo đó, khung hình phạt của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó cần xem xét áp dụng khung hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Vật chứng vụ án:
Đối với 0,17 gam hêrôin còn lại sau khi trừ đi số lượng đưa đi giám định đã được niêm phong theo quy định của pháp luật là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy màu trắng có chữ màu đen không còn giá trị sử dụng; 02 (hai) chiếc xi lanh loại 3ml/cc chưa qua sử dụng; 01 (một) ống Novocain còn ít giá trị sử dụng.
Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Flybee màu đen, số Imei 353015012521796 qua sử dụng: quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo Lò Văn K, bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, BKS: 26B1- 204.01, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Lò Thị T, sinh năm 1993, Nơi ĐKNKTT: Bản C, phường A, thành phố Sơn La là con dâu của bị cáo. Chị T không biết Lò Văn K mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội, nên không có lỗi. Do đó, ngày 13/6/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã ra quyết định xử lý vật chúng, trả lại chiếc xe trên cho chị T quản lý, sử dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/20017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt Lò Văn K 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 02/5/2017). Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn K - Tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 02/5/2017 tại bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + 01 mảnh giấy màu trắng có chữ màu đen; mẫu lưu kho ký hiệu LK2=0,17 gam”, mặt sau có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong; 02 (hai) chiếc xi lanh loại 3ml/cc chưa qua sử dụng; 01 (một) ống Novocain chưa qua sử dụng.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Flybee màu đen, số Imei 353015012521796 qua sử dụng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/8/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sơn La).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lò Văn K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 19/9/2017)./.
Bản án 125/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 125/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về