Bản án 1246/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1246/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 349/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 507/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 341/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1992 (có mặt);

Hộ khẩu thường trú: số 33A đường Đỗ Đăng Tuyển, Tổ B, ấp B, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở: Ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm 1989 (vắng mặt);

Hộ khẩu thường trú: số 33A đường Đỗ Đăng Tuyển, Tổ B, ấp B, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn nộp ngày 29/11/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

Bà và ông Trần Văn C tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân năm 2010, đã được Ủy ban nhân dân xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99 ngày 08/3/2010. Sau khi kết hôn thì bà và ông C sống chung bên gia đình chồng. Sau một khoảng thời gian sống chung thì bà và ông C bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do không hiểu nhau, khác biệt về cách sống và quan điểm sống, bà cũng đã không còn sống chung với ông C từ năm 2015 đến nay.

Sau những mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn, bà và ông C không còn tình cảm với nhau, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn C.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Trần Hoàng D, sinh ngày 31/3/2010 và Trần Quốc T, sinh ngày 31/5/2014. Hiện nay trẻ Trần Hoàng D đang sống chung với bà nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi; trẻ Trần Quốc T đang sống chung với ông C nên bà đồng ý giao trẻ T cho ông C tiếp tục nuôi dưỡng. Bà không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Tuyết N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà Nguyễn Thị Tuyết N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình gồm: Trích lục kết hôn (bản sao), trích lục khai sinh (bản sao), căn cước công dân (bản photo) và đơn xin xác nhận nơi cư trú.

Ông Trần Văn C đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đua vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập tham gia phiên tòa xét xử đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa quyết định đua vụ án ra xét xử vắng mặt ông C.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Trần Văn C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Theo nội dung đơn khởi kiện có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn có nơi cư trú tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi.

Bị đơn ông Trần Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông C.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Tuyết N và ông Trần Văn C tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99 ngày 08/3/2010 nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Tuyết N xin ly hôn với ông Trần Văn C là có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ: Theo lời trình bày của bà N thì mâu thuẫn giữa bà và ông C là trầm trọng và không thể hàn gắn. Cuộc sống vợ chồng của ông bà không hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống, cách sống. Hơn nữa, hiện tại bà N không còn chung sống với ông C từ năm 2015 đến nay. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông Trần Văn C không đến Tòa án theo giấy triệu tập của Tòa án chứng tỏ ông C không có thiện chí để đoàn tụ gia đình.

Ông Trần Văn C đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không đến và cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến hay bất cứ tài liệu, chứng cứ chứng minh có liên quan đến vụ án. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông C căn cứ theo các tài liệu chứng cứ mà phía nguyên đơn cung cấp và chứng cứ mà Tòa thu thập được theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự là có cơ sở.

Vì vậy, có cơ sở xác định tình cảm vợ chồng giữa bà N và ông C không còn, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung của hai người không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Trần Hoàng D, sinh ngày 31/3/2010 và Trần Quốc T, sinh ngày 31/5/2014.

Hiện nay trẻ Trần Hoàng D đang sống chung với bà Nguyễn Thị Tuyết N và tại bản tự khai ngày 16/7/2020 trẻ D có nguyện vọng sống với bà N nên Hội đồng xét xử quyết định giao trẻ D cho bà N được tiếp tục nuôi dưỡng; trẻ Trần Quốc T đang sống chung với ông Trần Văn C nên Hội đồng xét xử quyết định giao trẻ T cho ông C tiếp tục nuôi dưỡng. Bà N không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi, do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nghĩa vụ dân sự chung: Nguyên đơn xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Do ông Trần Văn C vắng mặt tại phiên tòa nên ông C có tranh chấp về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần buộc bà Nguyễn Thị Tuyết N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn với ông Trần Văn C.

Giấy chứng nhận kết hôn số 99 ngày 08/3/2010 của Ủy ban nhân dân xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Nguyễn Thị Tuyết N và ông Trần Văn C không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Giao con chung tên Trần Hoàng D, sinh ngày 31/3/2010 cho bà Nguyễn Thị Tuyết N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung tên Trần Quốc T, sinh ngày 31/5/2014 cho ông Trần Văn C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận việc bà N không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi, do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.

Ông C và bà N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định không có.

Nghĩa vụ dân sự chung: Nguyên đơn xác định không có.

Nếu ông Trần Văn C có tranh chấp về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

4. Án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) buộc bà Nguyễn Thị Tuyết N phải nộp nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0083702 ngày 29/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1246/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1246/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về