Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 124/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 281/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Hồng L – sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp 5, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau

Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng A – sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp 6, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau

Tại phiên tòa, chị L, anh Hoàng Anh có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, chị Phan Hồng L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Hoàng A sống chung năm 2017, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào năm 2018. Hiện tại vợ chồng chị đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Hoàng A.

Về con chung: Có một người con chung là cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 09/5/2018, cháu hiện đang sống cùng chị. Chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khôi và yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Chị xác định tự thỏa thuận với anh Hoàng A, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản hòa giải ngày 14/5/2019 và tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Hoàng A trình bày:

Về hôn nhân: Anh thống nhất với trình bày của chị L về thời gian chung sống, thời gian kết hôn, hôn nhân là do anh tự nguyện lựa chọn không ép buộc. Hiện tại vợ chồng chị đã ly thân nhau. Hiện anh không còn tình cảm với chị L, đo đó anh đồng ý ly hôn với chị L.

Về con chung: Có một người con chung là cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 09/5/2018, cháu hiện đang sống cùng chị L. Anh yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khôi và không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh xác định tự thỏa thuận với chị L, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Nguyễn Hoàng A có nơi trú tại ấp 6, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Phan Hồng L khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh Nguyễn Hoàng A, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị L là người khởi kiện, anh Hoàng A là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự chị L là nguyên đơn, anh Hoàng A là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và chị Hoàng A tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau vào ngày 20/6/2018 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh Hoàng A được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị L xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Hoàng A và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với anh Hoàng A. Bị đơn đồng ý ly hôn với nguyên đơn và xác định hiện không còn tình cảm vợ chồng với chị L, mong muốn được ly hôn. Tại phiên tòa, chị L xác định, nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị L được ly hôn với anh Hoàng A.

[3] Về con chung: Anh chị có một người con chung, cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 09/5/2018, cháu hiện đang sống cùng chị L, chị L và Anh Hoàng A đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khôi. Xét thấy, cháu Khôi hiện còn nhỏ chưa đủ tuổi để ghi nhận nguyện vọng của cháu theo quy định pháp luật, do đó cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của mỗi người cũng như sự phù hợp cho sự phát triển của cháu để quyết định người trực tiếp nuôi dưỡng cháu. Chị L hiện là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khôi từ khi hai vợ chồng ly thân nhau chao đến nay, hiện tại chị đang sống cùng với cha mẹ ruột và cuộc sống ổn định, cháu Khôi hiện vẫn dưới 36 tháng tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình quyền nuôi con thuộc về người mẹ và chị L có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu khôi do đó Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Khôi cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với sự phát triển của các cháu và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Chị L và anh Hoàng A không thống nhất được với nhau về việc cấp dưỡng nuôi con, anh Hoàng A không đồng ý cấp dưỡng, chị L yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Xét thấy, chị L là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh Hoàng A không trực tiếp nuôi con sẽ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật hôn nhân gia đình, việc cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Về mức cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình và hướng dẫn tại khoản 2, mục III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức cấp dưỡng tối thiểu không dưới 1/2 mức lương cơ sở do nhà nước quy định tại thời điểm xét xử đối với 01 người con, mức lương cơ sở hiện nay là 1.390.000 đồng, do đó anh Hoàng A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Khôi với số tiền 695.000 đồng/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 28/5/2019.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L và anh Hoàng A xác định tự thõa thuận với nhau và không có nợ chung, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, buộc anh Hoàng Anh phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 235, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 9, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Hồng L về việc yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng A.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Phan Hồng L được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng A.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 09/5/2018 cho chị Phan Hồng L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Hoàng A không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng: Buộc anh Nguyễn Hoàng A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 09/5/2018 với số tiền 695.000 đồng/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 28/5/2019.

4. Về án phí: Chị Phan Hồng L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, chị có nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003041 ngày 02 tháng 5 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu, chị Phạn Hồng Lữ không phải nộp tiếp. Anh Nguyễn Hoàng A phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai, nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:124/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về