Bản án 124/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VH, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 124/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V H, tỉnh SơnLa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. Sồng A T (tên gọi khác Tr), sinh năm 1979, tại V H, Sơn La.

Nơi cư trú: Bản S C,xã L L, huyện V H, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Sồng A C(đa chết) và bà Thào Thị L; Bị cáo có vợ là Tráng Thị Dvà 04 con;

Nhân thân: Ngày 16/3/2009 UBND huyện M Ch, tỉnh Sơn La ra Quyết định cưỡng chế chữa trị, giáo dục lao động tại Trung tâm giáo dục lao động tỉnh Sơn La; Tiền án: không;

Bị bắt, tạm giữ ngày 07 tháng 10 năm 2018 đến nay. Có mặt.

2. Ngô Văn Đ, sinh năm 1980, tại Ch M, Hà Nội.

Nơi cư trú: Xóm M, xã T Đ, huyện Ch M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12 ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Thiện chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Văn Đvà bà Đỗ Thị X; Bịcáo có vợ là Nguyễn Thị P và 03 con;

Nhân thân:

+ Ngày 16/8/2011 UBND huyện Ch M, Hà Nội ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc. Ngày 23/7/2013 ra Quyết định áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy; Bị bắt, tạm giữ ngày 06 tháng 10 năm 2018 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ: Xóm C, xã T Đ, huyện Ch M, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụán được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 phút, ngày 16/10/2018, tại bản C Ch, xã L L, huyện V H, tỉnh Sơn La. Tổ công tác Công an huyện V H kiểm tra xe máy nhãn hiệu Honda, BKS 33M9 - 9714 do Ngô Văn Đ điều khiển, chở phía sau Nguyễn Văn T, phát hiện Ngô Văn Đ lấy trong người ra 02 gói nilon nhỏ ném xuống đường. Tổ công tác đã phát hiện, thu giữ và niêm phong gồm: 01 gói nilon màu trắng, bên trong có 03 gói nilon màu đen đựng chất bột màu trắng, nghi là Heroine và 01 gói màu đen đựng 05 viên màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp.

Đ và T khai nhận, do quen biết và đều nghiện ma túy, nên khoảng 09 giờ 00 ngày 06/10/2018, Đ gọi điện rủ T cùng nhau lên huyện V H để mua ma túy sử dụng. T lấy xe máy đến đón Đ ở Trung tâm điều trị Methanon Xuân Mai. Sau đó, T để Đ điều khiển xe chỏ T lên V H. Đến bản S C, xã L L, Đ đưa T vào nhà Sồng A T. Đ hỏi mua, nhưng được T cho 01 gói Heroine. Đ pha số ma túy vào 02 chiếc xilanh mang đi từ trước, đưa cho T 01 chiếc cùng nhau chích vào cơ thể. Sử dụng ma túy xong, Đ đi theo T vào buồng ngủ hỏi mua được 03 gói Heroine với giá 4.000.000 đồng và 06 viên Hồng phiến với giá 300.000 đồng, đều được gói bằng nilon màu đen. Bán ma túy xong, T đi ra ngoài. Ở trong buồng, Đ lấy 01 viên Hồng phiến và một ít Heroine để sử dụng. Số ma túy còn lại, Đ lấy thêm một gói nilon màu trắng gói lại, cất vào túi quần bên trái, quay ra gọi T về. Đến bản C Ch, xã L L bị Tổ công tác Công an huyện V H kiểm tra. Sợ bị phát hiện, Đ ném số ma túy xuống đường thì bị phát hiện. Số ma túy Đ ném xuống đường là của Đ mua của Sồng A T đem về sử dụng. T cũng khai nhận không hề biết việc Đ đã mua ma túy lúc nào, bao nhiêu tiền, chỉ đến khi bị bắt mới biết Đ tàng trữ riêng để sử dụng. 

Sồng A T khai nhận, khoảng tháng 8/2018 T gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông, quốc tịch Lào, không biết tên, địa chỉ 01 túi Hồng phiến và 01 gói Heroine. Sau đó, đem về nhà cất giấu, có ai hỏi thì bán lại kiếm lời. Khi Đ và T đến, Đ hỏi mua thì được T bán lại cho hai loại ma túy với giá 4.300.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã tạm giữ của Ngô Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, vỏ màu xanh đen có chứa 01 sim Viettel số thuê bao 0982.980.105 đã qua sử dụng và 500.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam. Tạm giữ của Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh đen, bên trong có 01 sim Viettel có số thuê bao 0869.965.891 đã qua sử dụng, 01 xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave&, màu sơn đỏ BKS 33M9 – 9714 đã qua sử dụng, 01 thẻ căn cước công dân số 001088010932 mang tên Nguyễn Văn T và 200.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam và dẫn giải Đ và T về Cơ quan điều tra để xử lý.

Theo lời khai của Ngô Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét và bắt giữ khẩn cấp đối với Sồng A T, thu giữ: 02 gói nilon bên trong có 198 viên nén màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (Hồng phiến), 01 gói nilon bên trong đựng chất bột màu trắng nghi là Heroine, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo 1201 vỏ màu xanh đen, bên trong có 01 sim Viettel có số thuê bao033.239.7546 và 01 sim Vinaphone số thuê bao 0948.037.433 đã qua sử dụng, 01túi giả da màu tím có khóa đã qua sử dụng và 4.300.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam.

Tại Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh đã xác định như sau:

* Về số vật chứng thu của Ngô Văn Đ:

+ Chất bột màu trắng đựng trong gói nilon màu đen thứ nhất có khối lượng1,84 gam, trích 0,13 gam làm mẫu giám định, ký hiệu ĐT.

+ Chất bột màu trắng đựng trong gói nilon màu đen thứ hai có khối lượng 1,03 gam, trích 0,13 gam làm mẫu giám định, ký hiệu ĐT2.

+ Chất bột màu trắng đựng trong gói nilon màu đen thứ ba có khối lượng 0,82 gam, trích 0,1 gam làm mẫu giám định, ký hiệu ĐT4.

+ Số 05 viên nén màu hồng trong gói nilon màu đen có khối lượng 0,47 gam, trích 03 viên, khối lượng 0,29 gam làm mẫu giám định, ký hiệu ĐT6.

Tổng khối lượng thu giữ là 4,16 gam.

* Về số vật chứng thu của Sồng A T:

+ Số 195 viên nén màu hồng đựng trong túi nilon màu xanh thứ nhất có khối lượng 19,54 gam, lấy 05 viên khối lượng 0,50 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T.

+ Số 03 viên nén màu hồng đựng trong túi nilon màu xanh thứ hai có khối lượng 0,27 gam, lấy 03 viên khối lượng 0,18 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T2.

+ Chất bột màu trắng đựng trong gói nilon màu đen có khối lượng 4,28 gam,trích 0,11 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T4. Tổng khối lượng thu giữ là 24,09 gam.

Kết luận giám định số 1077/KLMT ngày 11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu ĐT6, T, T2 là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,97 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu ĐT, ĐT2, ĐT4, T4 là ma túy, Loại Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,47 gam. Tổng khối lượng của ma túy thu giữ được là 20,28 gam, loại Methamphetamine và 7,97 gam loại Heroine”

Cơ quan điều tra xác minh chiếc xe máy BKS 33M9 - 9714 thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Nguyễn Văn T. Nguyễn Văn T dùng xe máy đi đón Đ, rồi để Đ điều khiển xe đi mua ma túy sử dụng. Việc Đ mua và tàng trữ ma túy T không biết. Xét thấy hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T chưa đến mức truy cứu Trách nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra Công an huyện V H đã xử phạt vi phạm hành chính, đề nghị UBND xã T Đ, huyện Ch M, Hà Nội áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Nguyễn Văn T và trả lại chiếc xe máy, 01 căn cước công dân và 01 điện thoại di động cho T.

Ngô Văn Đ và Nguyễn Văn T sử dụng ma túy tại nhà Sồng A T, nhưng T không biết. Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý T về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Cáo trạng số 92/CT–VKS ngày 09/11/2018 của VKSND huyện V H, truy tố Sồng A T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm p khoản 2 điều 251 BLHS, truy tố Ngô Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản1 điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố Sồng A T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; Ngô Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

* Áp dụng điểm p khoản 2 điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51Bộ luật hình sự, xử phạt: Sồng A T từ 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng đến 13 (mười ba)năm 06 (sáu) tháng tù.

* Áp dụng điểm i khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Ngô Văn Đ từ 42 (bốn hai) tháng đến 54 (năm bốn) tháng tù.

* Không phạt bổ sung đối với các bị cáo; áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để tiêu huỷ: 01phong bì niêm phong bên trong đựng 19,13 gam Methamphetamine và 4,17 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,18 gam Methamphetamine và 3,33 gamHeroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 02 phong bì bên trong đựng que thử matúy đối với Ngô Văn Đ, Nguyễn Văn T; 01 túi giả da màu tím có khóa đã qua sử dụng của Sồng A T.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án phí: 200.000 đồng của Ngô Văn Đ, trả lại bị cáo 300.000 đồng.

+ Trả lại Sồng A T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo 1201 vỏ màu xanh đen, bên trong có 01 sim Viettel có số thuê bao 033.239.7546 và 01 sim Vinaphone số thuê bao 0948.037.433 đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 4.300.000 đồng của Sồng A T;

+ Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, vỏ màu xanh đen có chứa 01 sim Viettel số thuê bao 0982.980.105 đã qua sử dụng của Ngô Văn Đ để đảm bảo thi hành án phí.

+ Trả lại Nguyễn Văn T 200.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại 01 chiếc xe máy BKS 33M9 - 9714 đã qua sử dụng, 01 căn cước công dân và 01 điện thoại di động cho Nguyễn Văn T. Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện V H đã xử phạt vi phạm hành chính, đề nghị UBND xã T Đ, huyện Ch M, Hà Nội áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Nguyễn Văn T và không đặt vấn đề trách nhiệm hình sự với Sồng A T về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

- Các bị cáo phải chịu án phí HSST 200.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 06/10/2018 Ngô Văn Đ bị phát hiện bắt quả tang tàng trữ 0,47 gam Methamphetamine và 3,69 gam Heroine, tổng khối lượng là 4,16 gam ma túy. Ngô Văn Đ khai nhận đã mua số ma túy trên của Sồng A T với giá 4.300.000 đồng, mục đích mang về sử dụng. Ngày 07/10/2018 Sồng A T bị bắt giữ, thu giữ 19,13 gam Methamphetamine và 4,17 gam Heroine, tổng khối lượng là 24,09 gam ma túy. Sồng A T khai nhận đã mua số ma túy trên của một người đàn ông dân tộc Mông, người Lào không biết tên, địa chỉ, mang về bán lại kiếm lời.

Như vậy, hành vi tàng trữ 4,16 gam ma túy, mục đích sử dụng của Ngô Văn Đ là đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi mua tàng trữ 20,28 gam Methamphetamine và 7,97 gam Heroine (bao gồm cả khối lượng ma túy bán cho Ngô Văn Đ), mục đích bán lại kiếm lời, thu lợi bất chính 4.300.000 đồng của Sồng A T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Các bị cáo đều tàng trữ để sử dụng hoặc bán lại kiếm lời 02 loại ma túy. Căn cứ Điều 4, Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì:

+ Tổng khối lượng của hai chất ma túy của Ngô Văn Đ là 3,69 gam Heroine + 0,47 gam Methamphetamine = 4,16 gam (tương đương khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS). Do đó, bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Tổng khối lượng của hai chất ma túy của Sồng A T (gồm số lượng bị bắt thu giữ và đã bán cho Ngô Văn Đ) là 7,97 gam Heroine + 20,28 gam Methamphetamine = 28,25 gam (tương đương khối lượng ma túy quy định tại điểm p khoản 2 điều 251 BLHS). Do đó, bị cáo đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. HĐXX xét thấy, việc khởi tố, truy tố của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát được thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Tính chất hành vi và vai trò của các bị cáo: Bị cáo Ngô Văn Đ nghiện ma túy, phạm tội nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội; bị cáo Sồng A T hám lời, bán ma túy thu lợi bất chính, phạm tội rất nghiêm trọng, làm lây lan tệ nạn ma túy, phát sinh tội phạm khác. Hành vi của các bị cáo xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự địa phương. Ngô Văn Đ và Sồng A T đều có nhân thân xấu, đã bị bắt buộc cai nghiện. Do vậy, cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc với hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, nên đều được xem xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Ngô Văn Đ tích cực hợp tác với cơ quan điều tra khai báo phát hiện tội phạm, nên được áp dụng thêm điểm t khoản 1 điều 51 BLHS để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Sồng A T là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức hạn chế, có bố đẻ là người có công với cách mạng,do đó, được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS.

[4]Về phạt bổ sung: HĐXX xét thấy các bị cáo Ngô Văn Đ và Sồng A T đều nghiện ma túy, không có tài sản có giá trị, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]Vật chứng của vụ án:

+ 01phong bì niêm phong bên trong đựng 19,13 gam Methamphetamine và 4,17 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,18 gam Methamphetamine và 3,33 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 02 phong bì bên trong đựng que thử ma túy đối với Ngô Văn Đ, Nguyễn Văn T; 01 chiếc túi giả da màu tím có khóa đã qua sử dụng, là những vật bị cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.

+ Số tiền 500.000 đồng thu của Ngô Văn Đ không liên quan đến tội phạm, không tịch thu nhưng tạm giữ 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án phí. Còn lại trả lại bị cáo 300.000 đồng.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo 1201 vỏ màu xanh đen, bên trong có 01 sim Viettel có số thuê bao 033.239.7546 và 01 sim Vinaphone số thuê bao0948.037.433 đã qua sử dụng và 4.300.000 đồng của Sồng A T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, vỏ màu xanh đen có chứa 01 sim Viettel số thuê bao 0982.980.105 đã qua sử dụng của Ngô Văn Đ là những vật các bị cáo dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội và tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

+ Số tiền 200.000 đồng tạm giữ của Nguyễn Văn T không liên quan đến việc phạm tội, cần tuyên trả lại Nguyễn Văn T.

+ 01 chiếc xe máy BKS 33M9 - 9714 đã qua sử dụng mà Ngô Văn Đ và Nguyễn Văn T dùng để đi mua ma túy sử dụng; 01 thẻ căn cước công dân và 01 điện thoại di động, đều là tài sản của Nguyễn Văn T. HĐXX xét thấy đây là những tài sản 01 hoặc không liên quan đến tội phạm, hoặc do Nguyễn Văn T chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính, đề nghị chủ tịch UBND xã T Đ, huyện Ch M, Hà Nội áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Nguyễn Văn T và trả lại những tài sản trên cho Nguyễn Văn T là có căn cứ, cần chấp nhận.

[6]Về nguồn gốc chất ma túy:

Sồng A T khai đã mua số Heroine và Methamphetamine của một người đàn ông dân tộc Mông, quốc tịch Lào không biết tên, địa chỉ về bán cho Ngô Văn Đ. Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý người bán ma túy. Do vậy, Sồng A T phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ mục đích mua bán trái phép 28,25 gam ma túy. Ngô Văn Đ và Nguyễn Văn T sử dụng ma túy tại nhà Sồng A T, nhưng Sồng A T không biết. Do vậy, chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã không đặt vấn đề trách nhiệm hình sự với Sồng A T về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Các bị cáo Sồng A T, Ngô Văn Đ phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm p khoản 2 điều 251, điểm i khoản 1 điều 249 BLHS,Tuyên bố bị cáo Sồng A T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo Ngô Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1 - Áp dụng điểm p khoản 2 điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51BLHS, xử phạt: Sồng A T 13 (Mười ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 07/10/2018. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

2 - Áp dụng điểm i khoản 1 điều 249, điểm s,t khoản 1 điều 51 BLHS, xửphạt: Ngô Văn Đ 04 (Bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 06/10/2018. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng các điểm a, b, c khoản 1 điều 47 BLHS, điểm a, b, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 01phong bì niêm phong bên trong đựng 19,13 gam Methamphetamine và 4,17 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,18 gam Methamphetamine và 3,33 gamHeroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 02 phong bì bên trong đựng que thử ma túy đối với Ngô Văn Đ, Nguyễn Văn T; 01 chiếc túi giả da màu tím có khóa đã quasử dụng.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo1201 vỏ màu xanh đen, bên trong có 01 sim Viettel có số thuê bao 033.239.7546 và01 sim Vinaphone số thuê bao 0948.037.433 đã qua sử dụng và 4.300.000 đồng củaSồng A T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, vỏ màu xanh đen có chứa 01 sim Viettel số thuê bao 0982.980.105 đã qua sử dụng của Ngô Văn Đ.

+ Tạm giữ 200.000 đồng của Ngô Văn Đ để đảm bảo thi hành án phí. Trả lại bị cáo 300.000 đồng.

+ Trả lại số tiền 200.000 đồng cho Nguyễn Văn T.

Toàn bộ Vật chứng theo biên bản giao vật chứng số: 18/BBVC, ngày 17/10/2018 và Biên lai thu tiền số 0000854 ngày 12/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V H.

+ Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện V H không đặt vấn đề xửlý Sồng A T về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại 01 chiếc xe máy BKS 33M9 - 9714 đã qua sử dụng; 01 thẻ căn cước công dân và 01 điện thoại di động choNguyễn Văn T và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đề nghị chủ tịch UBND xã T Đ, huyện Ch M, Hà Nội áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với NguyễnVăn T.

4. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, mỗi bịcáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày,kể từ ngày tuyên án. Người có QLNVLQ vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án của Tòa án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:124/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về