Bản án 124/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 124/2018/HS-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 với bị cáo: 

Phạm Thanh T, sinh năm 1981, tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số A, đường P, khu phố A, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Thanh H (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; chung sống như vợ chồng với Nguyễn Huyền T, có 01 con sinh năm 2017;

Tiền án: Ngày 27/7/2009, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/01/2016 .

Tiền sự: chưa.

Bị bắt tạm giam từ ngày 29/3/2018 cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Nguyễn Thị Nha T (N), sinh năm 1995; địa chỉ: số B, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; có mặt.

+ Ông Nguyễn Lê Hoài T1, sinh năm 1994; địa chỉ: số C, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Đăng Duy K1, sinh năm 1983; địa chỉ: số D, phường A, quận A, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

+ Bà Ôn Bùi Mỹ X, sinh năm 1982; địa chỉ: số E, phường T, Phường A, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

+ Bà Lê Thị H1, sinh năm 1973; địa chỉ: số C, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Lê Hoài T2 (N), sinh năm 1991; địa chỉ: số C, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.

+ Bà Lê Thị Như A, sinh năm 2000; địa chỉ: số A, ấp V, xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ; vắng mặt.

+ Ông Huỳnh Chí K2, sinh năm 1988; địa chỉ: số A, đường A, phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

+ Ông Lê Thành Đ, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp T, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Huỳnh Chí V; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Bích H2; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Lê Hoài T3 (B); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 16/02/2018, nhận được tố giác về tội phạm của quần chúng nhân dân, Công an thành phố L kiểm tra hành chính nhà số C, khóm T, phường M, thành phố L. Qua kiểm tra phát hiện túi quần bên phải của Phạm Thanh T có 01 con dao bấm bằng kim loại, cách nơi bị cáo T đứng (trước nhà) khoảng 03 mét có 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng nên mời bị cáo T về trụ sở công an phường M làm việc. Tại đây, bị cáo T khai có để 01 ví da màu nâu đen bên trong có giấy tờ cá nhân và 16.000.000 đồng.

Đến khoảng 16 giờ ngày 16/02/2018, Công an phường M đến nhà số C, khóm T, phường M thì bà Lê Thị H1 (chủ nhà) giao nộp 01 ví da màu nâu đen và01 túi xách màu đen. Qua kiểm tra, Công an lập biên bản thu giữ  trong ví da màu nâu đen gồm: 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng; 02 giấy đăng ký xe mô tô biển số 59D1-157.13, 51K1-3151; 5.000 đồng, 01 thẻ căn cước và 01 giấy phép lái xe tên Phạm Thanh T. Thu giữ trong túi xách màu đen gồm: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59Y1-041.47; 02 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Kiều G và Nguyễn Thị Nha T.

Đến 17 giờ ngày 16/02/2018, Công an thành phố L kiểm tra xe ô tô, hiệu Chevrolet 05 chỗ, biển số 51F-956.62 của Tùng thuê và điều khiển đậu tại tổ 33, khóm H, phường M, cách nhà bà Lê Thị H1 khoảng 500 mét phát hiện ở hàng ghế sau có 01 bao nylon màu xanh, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng và các công cụ dùng để sử dụng ma túy.

Đến khoảng 17 giờ ngày 18/02/2018, bà H1 giao nộp 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L.

Vật chứng thu giữ gồm: 03 gói nylon chứa tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Piaggio biển số 59Y1-041.47, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số59Y1-041.47, 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59D1-157.13 và51K1-3151, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ căn cước tên Phạm Thanh T, 02 giấy chứng minh nhân  dân tên Lê Thị Kiều G và Nguyễn Thị Nha T, 01 ví da màu nâu đen, 01 túi xách màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, 5.000 đồng, 03 con dao bằng kim loại và các công cụ sử dụng ma túy đá.

Phiếu xét nghiệm ngày 16/02/2018 của Trung tâm Y tế thành phố L ghi nhận Phạm Thanh T dương tính với Methamphetamine.

Kết luận giám định số 107/KLGT-PC54 ngày 02/3/2018, số 108/KLGT- PC54 ngày 01/3/2018, số 109/KLGT-PC54 ngày 26/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, xác định:

- 01 hộp giấy được niêm phong có các chữ ký ghi tên Ngô Văn G, Nguyễn Thị Bích H, Trần Thanh H, Lê Hoàng T, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,1942 gam, loại Methamphetamine.

- 01 hộp giấy được niêm phong có các chữ ký ghi tên Ngô Văn G, Lê Thị H1, Trần Thanh H, Lê Hoàng T. Bên trong có 01 gói nylon trong suốt hàn kín, chứa tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,9080 gam, loại Ketamine.

- 01 hộp giấy được niêm phong có các chữ ký ghi tên Phạm Thanh T, Nguyễn Văn L, Trần Thanh H, Lê Hoàng T, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng: Gói kí hiệu M1 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1580 gam, loại Ketamine; Gói kí hiệu M2 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,7033 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Phạm Thanh T khai: 03 gói nylon chứa tinh thể màu trắng Công an thu giữ trong ví da màu nâu đen và trong xe ô tô 51F-956.62 là ma túy, bị cáo T mua của những người không rõ họ tên, địa chỉ ở Phường A, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 14/02/2018, 15/02/2018 với giá 1.500.000 đồng để sử dụng. Ngày 15/02/2018, bị cáo T thuê xe ô tô biển số 51F-956.62 của bà Ôn Bùi Mỹ X ở Phường A, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.000.000 đồng/ngày. Sau đó, bị cáo T điều khiển xe ô tô này từ thành phố Hồ Chí Minh đến huyện L, tỉnh Đồng Tháp thuê phòng tại nhà trọ S và điện thoại cho bạn gái là Nguyễn Thị Nha T điều khiển xe mô tô hiệu Piaggio, biển số 59Y1-041.47 đếncùng sử dụng ma túy. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/02/2018, bị cáo T cùng bà T đến nhà của Nguyễn Lê Hoài T1 ở số C, khóm T, phường M để mua ma túy đá nhưng chưa mua thì bị Công an đến kiểm tra. Khi thấy Công an đến T1 và bà T bỏ chạy, còn bị cáo T bị mời về Công an phường làm việc.

Tại Cáo trạng số 109/CT-VKS ngày 21 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên đã truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa,

- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Đối với số tiền để trong ví da màu nâu đen bị thu giữ, trong giai đoạn điều tra, bị cáo khai có để trong ví da màu nâu đen số tiền 16.000.000 đồng. Do không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nên bị cáo không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xet, giải quyết đối với số tiền này. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Nha T cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra. Đối với số tiền để trong túi xách màu đen bị thu giữ, trong giai đoạn điều tra, bà T khai có để trong túi xách màu đen số tiền 6.500.000 đồng. Do không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nên bà T không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xet, giải quyết đối với số tiền này.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đang có tiền án nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo đã bị Tòa án xử phạt tù nhưng không tu dưỡng thành công dân tốt mà còn thực hiện hành vi phạm tội. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 khoản Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu hủy: 03 hộp niêm phong có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A (ghi vụ số 107, vụ số 108 và vụ số 109), 03 con dao, 01 bật lửa, các vật dụng dùng cất dấu, sử dụng ma túy; giao trả cho bà T: 01 xe mô tô biển số 59Y1-041.47, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59Y1-041.47, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Nha T, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Kiều G, 01 túi xách màu đen; giao trả cho bị cáo: 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ căn cước mang tên bị cáo, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59D1-157.13, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 51K1-3151, 01 ví da màu nâu đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

 [2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Phạm Thanh T khai nhận, ngày 15/02/2018, bị cáo thuê xe ô tô biển số 51F-956.62 của bà Ôn Bùi Mỹ X ở Phường A, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.000.000 đồng/ngày và điều khiển đến huyện L, tỉnh Đồng Tháp. Bị cáo thuê phòng tại nhà trọ S và điện thoại cho Nguyễn Thị Nha T (bạn gái của bị cáo) đến sử dụng ma túy. Bà T điều khiển xe mô tô hiệu Piaggio, biển số 59Y1-041.47 đến và cùng sử dụng ma túy với bị cáo. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/02/2018, bị cáo cùng bà T đến nhà của Nguyễn Lê Hoài T1 ở số C, khóm T, phường M để chúc tết. Bà T có nói đến đó tìm T1 để mua ma túy đá của T1. Khi bị cáo ngồi trước phòng của T1; bà T, T1 ngồi trong phòng của T1 thì Công an đến kiểm tra. T1, bà T bỏ chạy; bị cáo bị mời về trụ sở Công an phường làm việc, thu giữ trong túi quần bị cáo 01 dao bấm kim loại. Khi đó, Công an có thu giữ 01 túi nylon có chứa tinh thể rắn màu trắng phía trước nhà T1 nhưng bị cáo không biết của ai.

Khi làm việc tại trụ sở Công an phường M, bị cáo khai còn bỏ quên 01 ví da màu nâu đen tại nhà của T1 nên Công an tiến hành thu giữ. Bên trong ví da, bị cáo có để 01 gói nylon chứa ma túy đá; 02 giấy đăng ký xe mô tô biển số 59D1- 157.13, 51K1-3151; , 01 thẻ căn cước và 01 giấy phép lái xe tên bị cáo; số tiền 16.000.000 đồng nhưng không có tài liệu, chứng cứ cứ chứng minh đối với số tiền này.

Đồng thời, khi kiểm tra xe ô tô biển số 51F-956.62, Công an còn thu giữ của bị cáo 02 gói nylon chứa ma túy đá được để trong 01 bao nylon màu xanh và các công cụ dùng để sử dụng ma túy.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: các biên bản kiểm tra hành chính ngày 16/02/2018 đối với căn nhà số C, khóm T, phường M, thành phố L và xe ô tô biển số 51F-956.62 do Công an phường M lập; biên bản tạm giữ đồ vật, tài sản ngày 16/02/2018 đối với tài sản, đồ vật do bà Lê Thị H1 giao nộp do Công an phường M lập; vật chứng bị thu giữ gồm: 03 gói nylon chứa tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển số 59Y1-041.47, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59Y1-041.47, 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59D1- 157.13 và 51K1-3151, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ căn cước mang tên bị cáo, 02 giấy chứng minh nhân dân tên Lê Thị Kiều G và Nguyễn Thị Nha T, 01 ví da màu nâu đen, 01 túi xách màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, 5.000 đồng, 03 con dao bằng kim loại và các công cụ sử dụng ma túy đá.

Bên cạnh đó, về diễn biến sự việc xảy ra, lời khai của bị cáo còn phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Nha T về việc có cùng bị cáo sử dụng ma túy ở nhà trọ tại huyện L, tỉnh Đồng Tháp; cùng bị cáo đến nhà bà H1. Khi bà T, bị cáo, T1 ở trong phòng của T1 thì bị Công an kiểm tra nên bà T, T1 bỏ chạy. Bà T có để quên trong phòng của T1 01 túi xách màu đen bên trong có 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59Y1-041.47, 02 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Kiều G và Nguyễn Thị Nha T, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, số tiền 6.500.000 đồng nhưng không có tài liệu, chứng cứ cứ chứng minh đối với số tiền này; phù hợp với lời khai của Nguyễn Lê Hoài T1 về việc bị cáo, bà T có đến nhà của bà H1. Khi bà T, bị cáo, T1 ở trong phòng của T1 thì bị Công an kiểm tra nên bà T, T1 bỏ chạy; phù hợp với lời khai của bà Lê Thị H1 về việc chứng kiến bị cáo bị bắt giữ khi Công an khám xét phòng ngủ của T1 bên trong căn nhà của bà H1. Sau đó, bà H1 có giao nộp 01 ví da màu nâu đen bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng, 02 giấy đăng ký xe mô tô biển số 59D1- 157.13, 51K1-3151, 5.000 đồng, 01 thẻ căn cước và 01 giấy phép lái xe tên Phạm Thanh T; 01 túi xách màu đen bên trong có 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59Y1-041.47, 02 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Kiều G và Nguyễn Thị Nha T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7; lời khai của bà Nguyễn Thị Bích H2 về việc chứng kiến lực lượng Công an dẫn giải bị cáo từ nhà T1 đi ra và thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng phía trước nhà T1 nhưng không biết vật gì, của ai; lời khai của ông Nguyễn Đăng Duy K1, bà Ôn Bùi Mỹ X về việc bà X có cho bị cáo thuê xe ô tô biển số 51F-956.62 thuộc sở hữu của ông K1, bà X với giá 1.000.000 đồng/ngày vào ngày 15/02/2018. Ông K1 đã nhận lại xe ô tô biển số 51F-956.62 vào ngày 05/4/2018. Ông K1, bà X không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Theo các Kết luận giám định số 108/KLGT-PC54 ngày 01/3/2018, số 109/KLGT-PC54 ngày 26/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon trong suốt hàn kín (được thu giữ từ ví da màu nâu đen của bị cáo) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,9080 gam, loại Ketamine; tinh thể màu trắng trong 02 gói nylon (bị thu giữ trong xe ô tô biển số 51F-956.62) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1580 gam, loại Ketamine (đối với gói kí hiệu M1) và khối lượng 0,7033 gam, loại Methamphetamine (đối với gói kí hiệu M2).

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 0,7033 gam Methamphetamine và 1,066 gam Ketamine.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

Ngoài lượng ma túy do bị cáo tàng trữ bị thu giữ, khi dẫn giải bị cáo từ nhà của bà H1 về trụ sở Công an làm việc, lực lượng Công an thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng. Theo Kết luận giám định số 107/KLGT-PC54 ngày 02/3/2018, tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon bị thu giữ, gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,1942 gam, loại Methamphetamine. Do không xác định được người đặt gói ma túy tại nơi bị thu giữ nên không có căn cứ xác định người phải chịu trách nhiệm hình sự về số ma túy này.

 [3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem là những nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, làm lan truyền đại dịch HIV/AIDS và còn là cơ sở phát sinh nhiều tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đang có 01 tiền án chưa được xóa án tích do bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” vào ngày 27/7/2009; chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/01/2016. Cho nên, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

 [5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [6] Về xem xét hành vi mua bán ma túy, trách nhiệm của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bị cáo, Nguyễn Thị Nha T khai, vào ngày 16/02/2018, bị cáo, bà T đến nhà của Nguyễn Lê Hoài T1 tại số C, khóm T, phường M để mua ma túy đá nhưng chưa mua thì bị Công an đến kiểm tra. Bị cáo, bà T xác định, bị cáo không bán ma túy cho T1. Bên cạnh đó, bà T còn khai, đã 04 lần mua ma túy đá do T1 bán nhưng do Lê Thị H1, Nguyễn Lê Hoài T2, Nguyễn Lê Hoài T3 giao và Lê Thị Như A, Nguyễn Lê Hoài T3 chứng kiến.

Trong khi đó, Nguyễn Lê Hoài T1 khai, vào ngày 16/02/2018, bị cáo đến nhà của bà H1, bán cho T1 để sử dụng nhưng chưa kịp mua bán thì bị Công an đến kiểm tra nên T1 bỏ chạy. Bên cạnh đó, T1 còn 03 lần mua ma túy của bị cáo.

Lời khai của bị cáo, bà T mâu thuẫn với lời khai của T1 về người bán, người mua ma túy giữa bị cáo với T1. Đồng thời, Lê Thị H1, Nguyễn Lê Hoài T2 không thừa nhận việc T1 có bán ma túy cho bà T, trong đó có lần bà H1, T2 giao ma túy cho bà T; Lê Thị Như A xác định không chứng kiến việc T1 bán ma túy cho ba2 T. Theo biên bản xác minh ngày 16/6/2018 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên lập, Nguyễn Lê Hoài T3 không còn cư trú tại địa phương.

Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa không có cơ sở xác định bị cáo bán ma túy cho T1 như lời khai của T1; việc T1 bán ma túy cho bị cáo, bà T và bà H1, ông T2 giao ma túy cho bà T giúp T1 như lời khai của bị cáo, bà T. Vì vậy, không có căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự bị cáo, T1, bà H1, ông T2 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy như lời khai của bị cáo, bà T, T1.

- Đối với người mà bị cáo khai bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai, lượng ma túy thu giữ từ bị cáo được bị cáo mua của những người không rõ họ tên, địa chỉ ở Phường A, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bị cáo không cung cấp được họ tên và địa chỉ của người này nên không có cơ sở xử lý trong cùng vụ án.

- Nguyễn Thị Nha T có hành vi sử dụng trái phép ma túy là vi phạm pháp luật nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên đã có văn bản đề nghị chính quyền địa phương xử lý hành chính là phù hợp quy định pháp luật.

- Bị cáo khai, ngoài các tài sản, vật dụng bị thu giữ, trong ví da mà nâu đen của bị cáo còn có số tiền 16.000.000 đồng. Nguyễn Thị Nha T khai, trong túi xách màu đen bị thu giữ của bà T có số tiền 6.500.000 đồng. Tuy nhiên, khi kiểm tra ví da, túi xách bị giữ, cơ quan chức năng không phát hiện số tiền như bị cáo, bà T khai. Bị cáo, bà T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh bị mất số tiền mà mình trình bày. Đồng thời, tại phiên tòa, bị cáo, bà T không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết đối với các khoản tiền mà bị cáo, bà T khai bị mất. Cho nên, việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên không khởi tố vụ án “Trộm cắp tài sản” là phù hợp quy định pháp luật.

 [7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi khám xét ví da màu nâu đen của bị cáo, khi khám xét xe ô tô biển số 51F-956.62 và thu giữ trước căn nhà số C, khóm T, phường M là vật cấm lưu hành; ví da, bọc nylon màu xanh, 01 hộp giấy, 01 bao thuốc lá, 02 quẹt ga màu vàng, 01 nhíp bằng kim loại, được sử dụng cất giấu ma túy, 02 quẹt ga màu trắng, 01 bọc nylon màu xanh, 01 ống thủy tinh, 01 chai gas màu đen, 20 bọc nylon có ba mặt hàn kín, 01 bình hút tự chế có nắp đậy là vật dụng được dùng vào cất giấu ma túy, sử dụng ma túy, vật không có giá trị sử dụng.

Vì vậy, tịch thu tiêu hủy lượng ma túy, các vật dụng này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại Samsung Galaxy A7, 01 xe mô tô biển số 59Y1- 041.47 và 01 túi xách màu đen, bà T khai các tài sản này thuộc sở hữu của bà T. Xe mô tô biển số 59Y1-041.47 được bà T mua của ông Lê Thành Đ, chưa làm thủ tục sang tên. Theo giấy chứng nhận đăng ký mô tô, ông Huỳnh Chí K2 là người đứng tên chủ sở hữu xe mô tô này. Tuy nhiên, theo hợp đồng ủy quyền giữa ông K2 với ông Đ, được Văn phòng công chứng Lê Thị Phương L chứng nhận ngày 02/01/2018 và hợp đồng ủy quyền giữa ông Đ với bà T, được Văn phòng công chứng Ninh Thị H chứng nhận ngày 03/01/2018, có căn cứ xác định, bà T là người quản lý, sử dụng hợp pháp xe mô tô biển số 59Y1-041.47. Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không thể hiện các tài sản này được sử dụng vào việc phạm tội.

Vì vậy, giao trả lại xe mô tô biển số 59Y1-041.47 cùng giấy tờ đăng ký xe, 01 điện thoại Samsung, 01 túi xách màu đen cho bà T theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với các giấy tờ tùy thân bị thu giữ, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ căn cứ mang tên bị cáo, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59D1-157.13, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 51K1-3151, đây là giấy tờ tùy thân thu giữ từ bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên giao trả cho bị cáo.

- 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Nha T, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Kiều G là giấy tờ tùy thân thu giữ từ bà T, không liên quan đến tội phạm nên giao trả cho bà T.

- 01 con dao bấm bằng kim loại, 01 dao bằng kim loại, 01 dao dài khoảng 70cm, lưỡi bằng kim loại, 01 bật lửa khè bằng nhựa màu đen được thu giữ trong người bị cáo và khi khám xét, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

- Ngoài ra, trong giai đoạn điều tra, lực lượng Công an có thu giữ 01 xe ô tô biển số 51F-956.62. Xe ô tô này thuộc sở hữu của ông K1, bà X, được bị cáo thuê. Ông K1, bà X không có lỗi trong việc bị cáo cất giấu ma túy trong xe ô tô này. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên đã giao trả lại xe ô tô này cùng giấy tờ xe cho ông K1, bà X là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

 [8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Phạm Thanh T: 03 (ba) năm 06 (sáu) thàng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 29/3/2018 (ngày hai mươi chín, tháng ba, năm hai nghìn không trăm mười tám).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) hộp niêm phong có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A (vụ số 107/KLGT-PC54 ngày 02/3/2018); cùng chất ma túy bên trong.

+ 01 (một) hộp niêm phong có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A (vụ số 108/KLGT-PC54 ngày 01/3/2018); cùng chất ma túy bên trong.

+ 01 (một) hộp niêm phong có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A (vụ số 109/KLGT-PC54 ngày 26/02/2018); cùng chất ma túy bên trong.

+ 01 (một) ví da màu nâu đen.

+ 01 (một) bọc nylon màu xanh bên trong có 20 (hai mươi) bọc nylon trong suốt chưa sử dụng, 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu vàng dài khoảng 05cm, một đầu hàn kín, một đầu nhọn.

+ 01 (một) bọc nylon màu xanh có chữ Điện Máy Xanh.

+ 01 (một) bọc nylon màu đen.

+ 01 (một) hộp giấy màu đen, trắng bên trên có chữ GQSID.

+ 01 (một) bao thuốc lá hiệu 555.

+ 02 (hai) quẹt ga bằng kim loại màu vàng.

+ 01 (một) nhíp bằng kim loại màu trắng.

+ 02 (hai) quẹt ga bằng nhựa màu trắng có hình trái táo.

+ 01 (một) bọc nylon màu xanh.

+ 01 (một) ống thủy tinh có đầu gù tròn.

+ 01 (một) chai gas màu đen hiệu BLUESTAR.

+ 20 (hai mươi) bọc nylon có 03 mặt hàn kín, 01 mặt hở có keo dán, có dòng chữ SEAL MASTER màu đỏ, chưa sử dụng.

+ 01 (một) bình hút tự chế bằng nhựa, loại chai nước suối hiệu H anh H, có nắp đậy màu trắng, trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh có đầu gù tròn và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng.

+ 01 (một) dao bấm bằng kim loại màu trắng, cán kẹp gỗ màu nâu.

+ 01 (một) dao bằng kim loại có lưỡi màu trắng dài khoảng 05cm, cán màu vàng dài khoảng 10cm.

+ 01 (một) dao dài khoảng 70cm, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 50cm, cánkẹp bằng gỗ màu nâu dài khoảng 20cm có bao vải màu đen.

+ 01 bật lửa khè bằng nhựa màu đen dài khoảng 20cm, đã qua sử dụng, không phân chất lượng.

- Giao trả cho bà Nguyễn Thị Nha T:

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Vespa biển số 59Y1-041.47, số khung: 004296, số máy: 4005606, đã qua sử dụng, chưa phân chất lượng.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, IMEI: 356825/07/162750/9 và 356850/07/162750/7, đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô biển số 59Y1-041.47.

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 362301950 tên Lê Thị Kiều G.

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 352244886 tên Nguyễn ThịNha T.

 + 01 (một) túi xách màu đen có dây đeo, bên ngoài có hiệu X.

- Giao trả cho bị cáo Phạm Thanh T:

+ 01 (một) giấy phép lái xe số 790163136136 tên Phạm Thanh T.

+ 01 (một) thẻ căn cước số 087081000026 tên Phạm Thanh T.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59D1-157.13.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 51K1-3151.

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/10/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L).

- Giao trả cho bị cáo số tiền 5.000 (năm nghìn) đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 25/6/2018 của Phòng Kế toán Kho bạc Nhà nước A.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Thanh T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bà Nguyễn Thị Nha T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Lê Hoài T1, ông Nguyễn Đăng Duy K1, bà Ôn Bùi Mỹ X, bà Lê Thị H1, ông Nguyễn Lê Hoài T2, bà Lê Thị Như A, ông Huỳnh Chí K2, ông Lê Thành Đ là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:124/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về