TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 124/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 28 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 273/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2018/QĐXX-ST ngày 10 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Mai Kiều D, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: ấp 5, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị đơn: Anh Trần Minh T, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: ấp H, xã B, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 03/4/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Mai Kiều D trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Trần Minh T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 30/8/2016 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T có hành vi đánh chị nhiều lần nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2017 đến nay.
Về con chung: Chị và anh T có một con chung là cháu Trần Thái B, sinh ngày 27/4/2017. Hiện nay chị đang nuôi dạy cháu B.
Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh T được ly hôn, về con chung chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu B và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung để chị và anh T tự thỏa thuận, về nợ chung là không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đương sự và đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Chị Mai Kiều D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trình bày, chị không có ý kiến gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đúng với quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của chị D yêu cầu ly hôn với anh T, về con chung giao cháu Bảo cho chị D tiếp tục nuôi dạy, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung để chị D và anh T tự thỏa thuận, không ai yêu cầu giải quyết nên không xét, về án phí chị D chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục: Tòa án đã triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng bị đơn anh T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh T.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Mai Kiều D và anh Trần Minh T được xác lập hợp pháp, thể hiện là anh chị tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 30/8/2016 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Quá trình chung sống giữa anh chị đã xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chung sống không có hạnh phúc nên anh chị đã sống ly thân như lời trình bày của chị D là thực tế có xảy ra. Điều này phù hợp với biên bản xác minh của Tòa án về tình trạng mâu thuẫn của anh chị. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải để anh chị hàn gắn nhưng không có kết quả, do anh T không tham gia phiên hòa giải và không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu ly hôn của chị D. Điều đó chứng tỏ mối quan hệ hôn nhân giữa anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên giải quyết cho anh chị ly hôn với nhau là phù hợp với thực tế. Do đó, chị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T là có cơ sở chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị D và anh T có một con chung là cháu Trần Thái B, sinh ngày 27/4/2017. Cháu B hiện chưa thành niên, kể từ khi ly thân đến nay chị D trực tiếp nuôi dạy cháu vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, cháu B hiện chưa được 36 tháng tuổi theo quy định con ở độ tuổi này phải giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dạy để đảm bảo phát triển tốt về mọi mặt, do đó giao cháu B cho chị D tiếp tục nuôi dạy là phù hợp. Chị D không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu Bảo mà không ai được cản trở.
[4] Về tài sản chung: Chị D xác định để chị và anh T tự thỏa thuận về tài sản chung, nợ chung là không có, không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Chị D chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, anh T không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận khởi kiện của chị Mai Kiều D yêu cầu ly hôn với anh Trần Minh T.
Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Mai Kiều D và anh Trần Minh T.
Về con chung: Giao cháu Trần Thái B, sinh ngày 27/4/2017 cho chị Mai Kiều D tiếp tục nuôi dạy. Anh Trần Minh T không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Trần Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu Trần Thái B mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Mai Kiều D chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng. Ngày 11/4/2018, chị D nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005400 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình được chuyển thu án phí.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị Mai Kiều D có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Minh T vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 124/2018/HNGĐ-ST ngày 28/09/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 124/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về