Bản án 124/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN  DÂN THÀNH  PHỐ B, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 124/2017/HSST NGÀY 22/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22/9/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 130/2017/HSST ngày 01/9/2017 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1976.

- Tên gọi khác: Không.

- Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn T xã T, huyện L tỉnh Bắc Giang.

- Quốc tịch: Việt Nam;  Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Tự do; Văn hoá: 7/12.

- Bố: Nguyễn Duy L (tên gọi khác: Nguyễn Văn L), sinh năm 1952.

- Mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1957.

- Vợ là Bùi Thị L,sinh năm 1980

- Gia đình có 02 anh chị em ruột, bị cáo là thứ nhất.

- Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2008.

- Tiền án: Bản án số 163 ngày 21/10/2009 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt T 03 năm tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”. Chưa chấp hành hình phạt bổ sung 5.000.000 đồng.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Bản án số 54 ngày 24/02/2005 của Tòa án nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) xử phạt 02 năm tù và phạt 5.000.000đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Được đình chỉ thi hành hình phạt bổ sung theo quyết định đình chỉ số 86 ngày 24/9/2010 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

+ Ngày 06/6/2014, Trưởng Công an phường H xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 23/9/2014, Trưởng Công an phường T xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 29/6/2017 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 21 giờ 30 phút ngày 28/6/2017 tại khu vực sườn bờ đê Chi Ly 1, phường P, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, tổ công tác Công an phường X phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B bắt quả tang Nguyễn Văn T, sinh năm 1976, trú tại: thôn T xã T, huyện L tỉnh Bắc Giang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 02 (hai) gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong mỗi gói đều đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy Hêrôin, thu giữ tại tay trái của T khi bị bắt. Tổ công tác đã cho vật chứng nghi ma tuý vào 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, đưa Nguyễn Văn T về trụ sở Công an phường Xương Giang, thành phố B lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số: 1014/KL-PC54 ngày 03/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

“Trong 01 (một) phong bì thư đã niêm phong gửi giám định: Chất cục, bột màu trắng đựng trong 02 gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng được niêm phong trong một phong bì thư gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng trọng lượng là 0,181 gam”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận như sau: Khoảng 21 giờ ngày 28/6/2017, Nguyễn Văn T đi xe ôm của một người không quen biết từ khu vực gần nhà đến bờ đê Chi Ly 1, phường P, thành phố B mua ma túy Hêrôin để sử dụng. Đến nơi, T đi bộ một mình đến một nhà không quen biết, qua lỗ cửa T trao đổi mua 100.000 đồng được 02 gói ma túy Hêrôin. T cầm số ma túy vừa mua ở tay trái đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Xương Giang phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 132/KSĐT ngày 31/8/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận rõ hành vi của mình như Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T  phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 33- Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 76, Điều 99- Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo từ  21 đến 24 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày 29/6/2017.

Về vật chứng của vụ án:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư đựng mẫu vật được niêm phong dán kín hoàn lại sau giám định bên trong có chứa ma túy hêrôin.

+ Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

+ Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, tang vật chứng thu được, kết luận giám định, đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 30 phút ngày 28/6/2017 tại khu vực sườn bờ đê Chi Ly 1, phường P, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, tổ công tác Công an phường X phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép  0,181 gam ma tuý Hêrôin với mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194- Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo điều khoản như trên là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất gây nghiện. Gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, là nguy cơ lây truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS… Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… trái phép chất ma tuý. Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, biết rõ tác hại của ma túy, bản thân bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã nhiều lần được cải tại giáo dục nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cải sửa nay lại phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do vậy cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo có 01 tiền án về hành vi “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích. Bị cáo phạm tội lần này thuộc T hợp tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48- Bộ luật hình sự.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Bố của bị cáo  là người có công với cách mạng và được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46- Bộ luật hình sự, điểm x khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Từ những nhận định trên đây, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên căn cứ khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội thì khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về mức hình phạt đối với người có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhẹ hơn mức hình phạt quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy, cần xem xét, áp dụng quy định c ó lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Người bán ma tuý cho bị cáo, do bị cáo khai không biết là ai nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về vật chứng của vụ án cần  xử lý: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư đựng mẫu vật được niêm phong dán kín hoàn lại sau giám định bên trong có chứa ma túy hêroin.

Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế, do vậy cầmiễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo .

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm  tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 41- Bộ luật hình sự. Điểm x khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự năm 2015. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Điều 76 Điều 99, Điều 231 và Điều 234-Bộ luật  tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc  hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 10 (mười) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 29/6/2017.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư đựng mẫu vật đượcniêm phong dán kín hoàn lại sau giám định bên trong có chứa ma túy hêroin.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

T hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9- Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30- Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:124/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về