Bản án 123/2021/HS-ST ngày 15/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 123/2021/HS-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 120/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137A/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức D, sinh ngày 11/12/1984 tại Thái Bình Nơi cư trú: Thôn H, xã G, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam.

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Con ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị Y (đều đã chết). Có vợ là Lê Thị Thu H, có 03 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 295/2016/HSST ngày 22/7/2016 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt Nguyễn Đức D 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 06/12/2016, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2018.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/6/2021 đến ngày 28/6/202 chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến:

+ Ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1960 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà 18, tổ 7 phường Đ, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

+ Ông Vũ Văn Trg, sinh năm 1958 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà 56, tổ 09, phường T, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 25/6/2021, Nguyễn Đức D đi xe buýt từ nhà lên khu vực ngã tư Trần Thái Tông – Kỳ Đồng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây D đã mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi, D không biết tên, địa chỉ của người này, được một gói ma túy gói bằng giấy tráng kim màu trắng với giá 200.000 đồng. D nhận và cất trong túi quần phía trước bên phải đang mặc sau đó đi bộ tìm chỗ sử dụng, khi đi đến bến xe khách Thái Bình thuộc tổ 01, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình thì bị Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. D đã tự giác lấy từ trong túi quần phía trước bên phải của D ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, D khai nhận là Hêrôin vừa mua để sử dụng. Kiểm tra người D thu tại túi quần bên trái 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã cũ và tiền Việt Nam 7.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 256/KLGĐMT – PC 09 ngày 28/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng thu giữ của Nguyễn Đức D, sinh năm 1984, trú tại Thôn H, xã G, huyện Đ, tỉnh Thái Bình là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,1787 gam (Không phẩy một nghìn bảy trăn tám mươi bảy gam).

Cáo trạng số 123/CT – VKSTPTB ngày 25/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Đức D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức D khai nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng đã mô tả. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Đức D như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/6/2021, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Nguyễn Đức D hoàn trả sau giám định, trả lại bị cáo 01 điện thoại Samsung đã cũ và số tiền 7000 đồng nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố và không tranh luận về các vấn đề khác.

Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra và truy tố cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có cơ sở khẳng định: Vào khoảng 08 giờ 30 phút, tại khu vực bến xe khách Thái Bình thuộc tổ 01, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, Nguyễn Đức D đã có hành vi tàng trữ 0,1787 gam ma túy loại Hêrôin để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây tác hại xấu đến xã hội. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức, nhận thức rõ hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vì nghiện ma túy, muốn thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của bản thân nên vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của Nguyễn Đức D đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm.

...

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...”.

[3] Viện kiểm sát thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Đức D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đức D đã từng bị kết án nhưng đã được xóa án tích, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo khai báo thành khẩn nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm", xét bị cáo D không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Theo quy định tại Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Số ma túy tịch thu của Nguyễn Đức D hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại Samsung màu đen đã cũ và số tiền 7.000 đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Đức D khai mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi không rõ tên, địa chỉ tại khu vực ngã tư đường Trần Thái Tông, Kỳ Đồng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 46; 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/6/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Nguyễn Đức D còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 256/KLGĐMT - PC09 ngày 28/6/2021, mẫu vật hoàn trả sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Trả lại bị cáo Nguyễn Đức D 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã cũ và số tiền 7.000 đồng (Các vật chứng, tài sản trên có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 26/8/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo. Bị cáo Nguyễn Đức D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 15/9/2021.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2021/HS-ST ngày 15/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:123/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về