Bản án 123/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LB, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 123/2020/HSST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận LB, Thành phố Hà Nội- Tòa án nhân dân quận LB, Thành phố Hà Nội đã xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 39/2020, ngày 20 tháng 02 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: NVH. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 13 tháng 01 năm 1995, tại: Hà Nội. HKTT: Tổ 1, phường LB, quận LB, Hà Nội. Chỗ ở: Không cố định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 8/12. Họ tên bố: NĐH, sinh năm: 1974. Họ tên mẹ: NTH, sinh năm: 1975. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000451 lập ngày 28 tháng 10 năm 2019 tại Công an quận CG và lý lịch bị can thể hiện bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 06/9/2019, ngày 15/9/2019 tạm giam đến nay tại Trại tạm giam số 01 – Công an Thành phố Hà Nội. (có mặt tại phiên tòa) 2. Họ và tên: CVT. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 08 tháng 8 năm 1977, tại: Hà Nội. HKTT và chỗ ở: tổ 47, phường VH, quận HM, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do.Trình độ văn hóa: 8/12. Họ tên bố: CTH, sinh năm: 1954. Họ tên mẹ:

DTG, sinh năm: 1952. Gia đình có hai an hem bị cáo là thứ nhất. Họ tên vợ: NTN, sinh năm: 1980. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000454 lập ngày 28 tháng 10 năm 2019 tại Công an quận CG và lý lịch bị can thể hiện bị cáo có 01 tiền án, 04 tiền sự.

Tiền sự:

- Năm 2001, Công an huyện Thanh Trì xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.

- Ngày 17/4/2004, Công an huyện Thanh Trì xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.

- Tháng 5/2004, Công an phường VH bắt đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng.

- Ngày 15/8/2013, Công an phường VH bắt đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Tiền án: Bản án số 267/2007/HSST ngày 16/8/2007, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 28/02/2009. Đã nộp án phí ngày 25/11/2007. Bị can đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 06/9/2019, ngày 15/9/2019 tạm giam đến nay tại Trại tạm giam số 01 – Công an Thành phố Hà Nội. (có mặt tại phiên tòa)

2. Họ và tên: PVB. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 28 tháng 02 năm 1995, tại: TB. HKTT và chỗ ở: Thôn TP, xã BĐ, huyện KX, tỉnh TB. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh..Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 12/12’ Họ tên bố: Phạm Văn Sơn, sinh năm: 1962. Họ tên mẹ: Trần Thị Tho, sinh năm: 1967. Gia đình có hai anh em bị cáo là thứ nhất Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000449 lập ngày 28 tháng 10 năm 2019 tại Công an quận CG và lý lịch bị can thể hiện bị cáo có 01 tiền án. Bản án số 11/2013/HSST ngày 04/5/2013, Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, TB xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội Gây rối trật tự công cộng. Đã nộp án phí ngày 01/7/2013. Bị can đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 06/9/2019 đến ngày 13/9/2019 hủy bỏ tạm giữ, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa)

3. Họ và tên: TTH. Giới tính: Nữ. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 23 tháng 03 năm 1990, tại: TB. HKTT và chỗ ở: Thôn BL, xã VT, huyện VT, tỉnh TB. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 12/12. Họ tên bố: TPc Thịnh, sinh năm : 1951.Họ tên mẹ: Trần Thị Sim, sinh năm: 1957. Gia đình có bốn anh chị em bị cáo là thứ tư Họ tên chồng: Ngô Quốc Anh, sinh năm: 1972 (đã ly hôn). Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000109 lập ngày 04 tháng 01 năm 2010 tại Công an quận LB và lý lịch bị can thể hiện bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa) Người bị hại:

1. Chị VTN, sinh năm 1982. Trú tại: Tổ 16, phường SĐ, quận LB, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt tại phiên tòa).

2. Anh NAT, sinh năm sinh năm 1992. Trú tại: Số 4 ngõ 195/23 YD, YS, quận HM, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt tại phiên tòa).

3. Anh TĐD, sinh năm sinh năm 1971. Trú tại: Số 2, khu tái Định Cư phố Trạm, phường LB, quận LB, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị ĐTKN sinh năm 1983. Trú tại: 504B8 TH, phường NT, quận CG, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do không có tiền tiêu xài nên NVH và CVT đã bàn bạc với nhau về việc đi trộm cắp xe máy sau đó Thành sẽ tìm người để tiêu thụ số xe máy trộm cắp được, số tiền kiếm được từ việc tiêu thụ xe máy sẽ chia nhau tiêu xài. Hùng chuẩn bị công cụ, phương tiện gồm: 02(hai) mũi “Vam” và 01(một) tay “công” dùng để phá ổ khóa điện của xe máy.

Khong 19 giờ ngày 30/8/2019, NVH cùng đối tượng tên “Toàn” và anh của Toàn (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) rủ nhau đi trộm cắp xe máy tại khu vực phường SĐ, quận LB, Hà Nội. Khi đến khu tập thể Kim khí Thăng Long, phường SĐ, quận LB, Hà Nội thì phát hiện khu vực gầm cầu thang khu tập thể có dựng 01chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu xanh BKS: 29K1 – 363.15 là tài sản của chị VTN (sinh năm: 1982; HKTT: tổ 16, phường SĐ, quận LB, Hà Nội) không có người trông giữ. Lợi dụng lúc trời tối, “Toàn” đi bộ đến gần rồi dùng vam phá ổ khóa của chiếc xe máy này và dắt chiếc xe máy này ra ngoài đường rồi sau đó ngồi lên yên xe để Hùng đi xe máy chở anh của Toàn ngồi sau dùng chân đẩy chiếc xe honda SH này đến khu vực gần hồ SĐ. Do sợ chiếc xe có lắp thiết bị định vị nên cả ba đối tượng đã giấu chiếc xe này vào trong khu nghĩa trang rồi cùng nhau đi chơi điện tử đợi đến khi trời sáng thì quay lại lấy chiếc xe này. Sau đó, Hùng gọi điện cho CVT để Thành tìm người tiêu thụ chiếc xe Honda SH trên. Thành đã sử dụng tài khoản Zalo “CVT” để liên hệ với PVB và nói với Bình rằng “đang có con xe SH không có giấy tờ muốn bán”. Bình yêu cầu Thành chụp ảnh xe Honda SH để kiểm tra trước. Sau khi xem ảnh chiếc xe này, Bình thỏa thuận mua chiếc xe Honda SH này với giá 14.000.000 đồng. Thành báo lại cho Hùng biết và bảo Hùng mang xe Honda SH đến hồ Đền Lừ, quận HM để bán xe cho Bình. Hùng lắp BKS giả: 29Y3 – 486.88 và cất BKS: 29K1 – 363.15 vào trong cốp xe Honda SH trên rồi bán cho Bình. Số tiền có được từ việc tiêu thụ chiếc xe máy này, Hùng đưa tất cả cho “Toàn”. Sau đó, “Toàn” đi đâu làm gì thì Hùng và Thành không biết. Sau khi mua xe, Bình đã thay ổ khóa xe mới và bàn bạc với TTH sử dụng tài khoản mạng xã hội facebook là “Thỏ Tím” và “Đào Duy Từ” để đăng bài lên “Hội mua bán xe máy không giấy tờ Hà Nội” để rao bán chiếc xe Honda SH trên với giá 24.000.000 đồng mục đích hưởng lợi bất chính số tiền 10.000.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ ngày 05/9/2019, khi Bình điều khiển xe máy Honda SH màu xanh gắn BKS: 29Y3 – 486.88 và TTH điều khiển xe máy Honda SH màu đen trắng gắn BKS: 29H1 – 181.61 trên đường đi tiêu thụ thì bị tổ công tác đội Cảnh sát hình sự - Công an quận CG đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên đường Hồ Tùng Mậu yêu cầu Bình và Hằng dừng xe, xuất trình giấy tờ chứng minh nguồn gốc của hai chiếc xe máy trên. Tuy nhiên, cả Hằng và Bình đều không xuất trình được giấy đăng ký của 02 chiếc xe máy này. Tổ công tác đã đưa Hằng và Bình cùng 02 chiếc xe máy trên về trụ sở để làm rõ.

Tang vật thu giữ:

- 01 điện thoại Samsung Dual J7 đã qua sử dụng; 01 thẻ ATM mang tên CVT; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ BKS: 30H4-5411 đã qua sử dụng (thu giữ của CVT) - 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i màu xanh đen BKS: 29Y3-486.88 đã qua sử dụng bên trong cốp có 01 BKS: 29K1 – 363.15; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng hồng đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen đã qua sử dụng bên trong có lắp sim số 0852105234 (thu giữ của PVB);

- 02 vam phá khóa bằng kim loại chiều dài khoảng 08 cm; 01 tay công phá khóa chiều dài 15 cm; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh BKS: 17B6- 105.30 ( thu giữ của NVH);

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 150i màu đen BKS: 29H1-181.61 đã qua sử dụng; 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007852 mang tên Nguyễn Văn Sơn; 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007321, biển số đăng kí 29B1-094.20; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus màu trắng vàng đã qua sử dụng bên trong có lắp sim số 0948214244; 9.800.000 đồng (thu giữ của TTH).

Ngoài ra, quá trình khám xét tại nhà CVT và PVB tiếp tục thu giữ:

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream do Trung Quốc sản xuất không biển kiểm soát; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ BKS: 29D1-748.23 đã qua sử dụng trong cốp có 01 bộ vam phá khóa (thu giữ của CVT);

- 01 BKS 29T1-590.35; 01 BKS 30L3-…936 (thu giữ của PVB). Bình khai nhận: các biển kiểm soát này do Bình nhặt được;

Tại bản kết luận giám định số 7853/KL-PC09- Đ3 ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu xanh gắn BKS: 29Y3 – 486.88 có số khung: 055104 và số máy: 0055113 là số nguyên thủy.

Tại Kết luận định giá tài sản số 335/KL-HĐ ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận LB, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH Việt 125i màu xanh đen bạc BKS: 29K1-363.15 đã qua sử dụng, giá trị: 40.000.000 đồng.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i màu xanh đen BKS: 29K1- 363.15 đã qua sử dụng: Quá trình điều tra xác định, đăng ký xe mang tên chị VTN. Kết quả tra cứu xe máy trên xác định chiếc xe không nằm trong hệ thống xe tang vật. Ngày 26/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận LB đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 11 trao trả cho chị VTN. Sau khi nhận xe chị VTN không có yêu cầu gì khác về dân sự và đề nghị xử lý các bị can theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, quá trình điều tra cơ quan điều tra còn làm rõ trong khoảng thời gian từ cuối tháng 8/2019 đến 05/9/2019, các bị can đã thực hiện các vụ trộm cắp sau:

Vụ thứ nhất : Khoảng cuối tháng 8/2019, một mình NVH đã trộm cắp được 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave màu đỏ BKS: 29D1 – 748.23 tại khu vực huyện Thanh Trì, Hà Nội (Hùng không nhớ chính xác địa điểm). Sau khi trộm cắp được chiếc xe máy này, Hùng mang đến nhà CVT ở phường VH, quận HM, Hà Nội để cất giấu. Sau đó, Hùng và Thành thống nhất sẽ sử dụng chiếc xe máy này để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản (cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe trên khi tiến hành khám xét tại nhà CVT).

Tại bản kết luận giám định số 7853/KL-PC09- Đ3 ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ gắn BKS: 29D1 – 748.23 có số khung:

116453 và số máy: 0663657 là số nguyên thủy.

Tại Kết luận định giá tài sản số 335/KL-HĐ ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận LB, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ BKS: 29D1-748.23 đã qua sử dụng, giá trị: 6.000.000 đồng.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ BKS: 29D1-748.23 đã qua sử dụng: Quá trình điều tra xác định, chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ gắn BKS: 29D1 – 748.23 có số khung: 116453 và số máy: 0663657 là số nguyên thủy. Kết quả tra cứu số khung, số máy không có thông tin của chủ sở hữu. Kết quả tra cứu BKS: 29D1 – 748.23 mang tên ông Vũ Văn Sơn (sinh năm: 1951; HKTT: 18 ngõ Thái Lợi, phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Ông Sơn cho biết không sở hữu chiếc xe máy nào có BKS: 29D1 – 748.23. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận LB tiếp tục tạm giữ chiếc xe trên và tách các tài liệu liên quan đến vụ án. Khi nào làm rõ bị hại sẽ xử lý sau.

Vụ thứ hai : Do có sự bàn bạc với nhau từ trước nên trưa ngày 05/9/2019, Hùng chuẩn bị vam phá khóa và điều khiển 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave màu đỏ BKS: 29D1 – 748.23 để chở Thành đi từ khu vực phường VH, quận HM, Hà Nội đến khu vực phường LB, quận LB, Hà Nội mục đích để trộm cắp xe máy. Tại khu vực phố Trạm, phường LB, Hùng và Thành phát hiện 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh BKS: 17B6 – 105.30 của anh TĐD (Sinh năm: 1973; HKTT: số 2 khu tái định cư phố Trạm, phường LB, quận LB, Hà Nội) đang dựng trước cửa dãy nhà trọ không có người trông giữ. Thành ngồi bên ngoài xe máy để cảnh giới, còn Hùng xuống xe đi bộ lại gần chiếc xe máy này. Hùng phát hiện chiếc xe máy không khóa cổ, không khóa càng nên đã dùng tay dắt chiếc xe ra ngoài cổng dãy nhà trọ rồi dùng vam phá ổ khóa điện của chiếc xe và nổ máy đi về cất giấu tại nhà của Thành ở phường VH, quận HM, Hà Nội. (Cơ quan điều tra đã tạm giữ chiếc xe trên của Hùng) Tại bản kết luận giám định số 7853/KL-PC09- Đ3 ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ gắn BKS: 17B6 – 105.30 có số khung: 221055 và số máy: 5221150 là số nguyên thủy.

Tại Kết luận định giá tài sản số 410/TCKH-BBĐGHĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận CG, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh đen bạc BKS: 17B6-105.30 đã qua sử dụng, giá trị: 11.400.000 đồng.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, BKS: 17B6-105.30: Quá trình điều tra xác định, đăng ký xe mang tên anh Phạm Văn Tuyên (Sinh năm: 1980, HKTT: Xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy, tỉnh TB) ngày 15/01/2018 đã tặng chiếc xe máy trên cho anh TĐD. Kết quả tra cứu xác định chiếc xe trên không nằm trong hệ thống xe tang vật. Ngày 26/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận LB đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 11 trao trả xe máy Honda Wave màu xanh BKS: 17B6-105.30 cho anh TĐD. Sau khi nhận xe, anh TĐD không có yêu cầu gì khác về dân sự và đề nghị xử lý các bị can theo quy định của pháp luật.

Vụ thứ ba : Khoảng 16 giờ ngày 05/9/2019, Thành điều khiển xe Honda Wave màu đỏ BKS: 29D1 – 748.23 chở Hùng đi từ khu vực vực phường VH, quận HM, Hà Nội qua gầm cầu Thanh Trì đến khu vực phường YS, quận HM, Hà Nội mục đích để trộm cắp xe máy. Tại khu vực ngõ 195 phố YD thì Hùng và Thành phát hiện 01 chiếc xe máy nhãn hiệu honda LEAD màu đỏ BKS: 30H4 – 5411 của anh Nguyễn Tuấn Anh (Sinh năm: 1992; HKTT: số 4 ngõ 195/23 YD, YS, HM, Hà Nội) đang dựng trước cửa phòng trọ không có người trông giữ.

Thành ngồi ngoài xe cảnh giới cho Hùng đi bộ lại gần chiếc xe máy này. Hùng dùng tay dắt chiếc xe máy này ra ngoài cổng phòng trọ rồi dùng vam phá ổ khóa điện của chiếc xe và nổ máy đi về nhà Thành tại VH, Q. HM, Hà Nội cất giấu. (Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe trên của Thành) Tại bản kết luận giám định số 7853/KL-PC09- Đ3 ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu honda LEAD màu đỏ BKS: 30H4 – 5411 có số khung: 026362 và số máy: 0030230 là số nguyên thủy.

Tại Kết luận định giá tài sản số 410/TCKH-BBĐGHĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận CG, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ BKS: 30H4-5411 đã qua sử dụng, giá trị: 7.400.000 đồng.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ BKS: 30H4-5411: Quá trình điều tra xác định, đăng ký xe mang tên anh Lê Quang Vinh (HKTT: phường Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội) năm 2014, anh Vinh đã bán chiếc xe trên cho anh Nguyễn Tuấn Anh để làm phương tiện đi lại. Kết quả tra cứu xác định chiếc xe trên không nằm trong hệ thống xe tang vật. Ngày 26/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận LB đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 11 trao trả xe máy Honda Lead màu đỏ BKS: 30H4-5411 cho anh Nguyễn Tuấn Anh. Sau khi nhận xe, anh Nguyễn Tuấn Anh không có yêu cầu gì khác về dân sự và đề nghị xử lý các bị can theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, các bị can NVH; CVT; PVB; TTH đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản và Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như nội dung tình tiết đã nêu trên. Lời khai của các bị can hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận LB đã truy tố bị cáo NVH, CVT đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. PVB, TTH đã phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm Bị cáo các bị cáo khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm nhân dân quận LB sau khi tóm tắt nội dung sự việc, đánh giá lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; trình bầy lời nhận tội và đề nghị như sau:

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 điều 173 đối với Hùng và Thành; khoản 1 điều 323 đối với Bình và Hằng, điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; điều 65 và 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt NVH, từ 33 tháng đến 36 tháng tù. CVT từ 36 tháng đến 39 tháng tù.

Xử phạt PVB từ 20 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 40 đến 48 tháng. TTH từ 15 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.Thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Về dân sự: Chị VTN, anh NAT và anh TĐD đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì phần dân sự do vậy không xem xét giải quyết.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 150i màu đen BKS: 29H1-181.61 đã chuyển Công an quận Hai Bà Trưng để giải quyết theo thẩm quyền.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream do Trung Quốc sản xuất không biển kiểm soát: Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận LB tiếp tục tạm giữ chiếc xe trên để điều tra làm rõ chủ sở hữu, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đi với 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007852 mang tên Nguyễn Văn Sơn: cho tịch thu tiêu hủy;

Đi với 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007321, biển số đăng kí 29B1- 094.20: Đề nghị trả lại cho chị ĐTKN.

Đi với 01 điện thoại Samsung Dual J7; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng hồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen bên trong có lắp sim số 0852105234; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus màu trắng bên trong có lắp sim số 0948214244 đề nghị tịch thu sung công và đề nghị tiêu hủy: 01 bộ vam phá khóa; 01 BKS: 29Y3-486.88; 01 BKS 29T1- 590.35; 01 BKS 30L3-…936; 02 vam phá khóa bằng kim loại chiều dài khoảng 08 cm; 01 tay công phá khóa chiều dài 15 cm.

Trả lại cho bị cáo Thành 01 thẻ ATM mang tên CVT Trả lại cho bị cáo Hằng số tiền 9.800.000 đồng.

Đi với đối tượng tên Toàn và anh của Toàn: Do Hùng và Thành khai không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

Các bị cáo sau khi nghe quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận LB, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận đã có hành vi Trộm cắp tài sản của mình là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luật. Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận LB, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận LB, Thành phố hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên Tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 8/2019 đến ngày 05/9/2019, NVH và CVT đã thực hiện một số vụ trộm cắp tài sản sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 19 giờ ngày 30/8/2019, tại khu tập thể Kim khí Thăng Long, phường SĐ, quận LB, Hà Nội, NVH và CVT đã có hành vi trộm cắp 01chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu xanh BKS: 29K1 – 363.15 trị giá 40.000.000 đồng của chị VTN. Sau khi Hùng và Thành trộm cắp được tài sản, PVB và TTH đã có hành vi tiêu thụ chiếc xe nói trên.

Vụ thứ hai: Khong trưa ngày 05/9/2019, tại phố Trạm, phường LB, quận LB, Hà Nội, NVH và CVT đã có hành vi trộm cắp 01chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh BKS: 17B6 – 105.30 trị giá 11.400.000 đồng của anh TĐD.

Vụ thứ ba: Khong 16 giờ ngày 05/9/2019, tại khu vực gầm cầu Thanh Trì đến khu vực phường YS, quận HM, Hà Nội, NVH và CVT đã có hành vi trộm cắp 01chiếc xe máy nhãn hiệu Honda LEAD màu đỏ BKS: 30H4 – 5411 trị giá 7.400.000 đồng của anh Nguyễn Tuấn Anh.

Tng giá trị tài sản NVH và CVT chiếm đoạt ba lần là: 58.800.000 đồng (Năm mươi tám triệu, tám trăm nghìn đồng).

Giá trị tài sản PVB và TTH đã tiêu thụ là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được Bộ luật hình sự bảo vệ và gây mất trật tự trị an xã hội. Viện kiểm sát nhân dân quận LB truy tố bị cáo NVH và bị cáo CVT phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; bị cáo PVB và bị cáo TTH đã phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

[3]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sư: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo Hùng và bị cáo hằng chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo Thành đã có 01 tiền án và 04 tiền sự, bị cáo Bình có một tiền sự. Các tiền án và tiền sự cảu hai bị cáo đều đã được xóa, hành vi phạm tội lần này của hai bị cáo không phải là tái phạm nhưng điều đó thể hiện các bị cáo có nhân thân xấu, đã được cải tạo giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo Hùng mặc dù chưa có tiền án nhưng trong một thời gian ngắn bị cáo đã liên tiếp thực hiện nhiều hành vi phạm tội, hành vi cảu bị cáo bị phát hiện là ngoài mong muốn. Bị cáo Thành trong vụ án này chỉ thực hiện 02 hành vi trộm cáo với bị cáo Hùng nhưng trước đó bị cáo và Hùng đã bàn bạc cùng nhau trộm cắp, bị cáo biết trước ý định của Hùng là muốn thực hiện hành vi phạm tội và bị cáo có hứa hẹn sẽ chứa nhấp, tiêu thu tài sản do Hùng trộm cắp được do vậy bị cáo Thành đồng phạm với bị cáo Hùng với vai trò là người giúp sức.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm này các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Bình có bố bị teo não, là lao dộng duy nhất trong gia đình; bị cáo Hằng có bố là người có công. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không Đây là vụ án đồng phạm. Đối với hành vi trộm cắp thì bị cáo Hùng là người thực hành tích cực, trực tiếp thực hiện các hành vi, bị cáo Thành thực hiện hai hành vi và là người giúp sức có nhân thân xấu do vậy mức án của bị cáo Hùng và Thành bằng nhau. Đối với hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì cả bị cáo Bình và bị cáo Hằng đều là người thực hiện. Bị cáo Bình có nhân thân xấu do vậy mức án của bị cáo Bình cao hơn mức án của bị cáo Hằng.

[4].Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt từ có thời hạn đối với các bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo. Đối với bị cáo Bình và bị cáo Hằng có hai tình tiết giảm nhẹ, bị cáo Bình mặc dù đã có 01 tiền án nhưng từ năm 2012, phạm tội gây gối trật tự công công là loại tội ít nghiêm trọng phạm tội dưới 18 tuổi nên cũng thấy đó làm căn cứ để cho bị cáo Bình và bị cáo Hằng được cải tạo ngoài xã hội thể hiện sự khoan hồng của pháp luật cũng có tác dục giáo dục đối với hai bị cáo.

Về hành phạt bổ sung: Các bị cáo đều không có thu nhập ổn định; tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại, do vậy thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về dân sự: Chị VTN, anh NAT và anh TĐD đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không có yêu cầu đề nghị gì do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Xử lý vật chứng: 01 bộ vam phá khóa; 02 vam phá khóa bằng kim loại chiều dài khoảng 08 cm; 01 tay công phá khóa chiều dài 15 cm cho tịch thu tiêu hủy.

[7]. Các vấn đề khác:

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 150i màu đen BKS: 29H1-181.61 đã qua sử dụng: Quá trình điều tra xác định là xe tang vật xảy ra tại phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, đã chuyển Công an quận Hai Bà Trưng để giải quyết theo thẩm quyền do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đi với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream do Trung Quốc sản xuất không biển kiểm soát: Quá trình điều tra xác định. Kết quả tra cứu số khung, số máy không có thông tin của chủ sở hữu. Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận LB tiếp tục tạm giữ chiếc xe trên để điều tra làm rõ chủ sở hữu, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đi với 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007852 mang tên Nguyễn Văn Sơn: Quá trình điều tra xác định, đăng kí xe trên là đăng kí xe giả. Bị cáo Hằng khai khi mua xe không biết đăng kí xe trên là giả. Do vậy cho tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007321, biển số đăng kí 29B1- 094.20: Chị Ngân khai: Năm 2011, chị Ngân mua 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS: 29B1-094.20 để làm phương tiện đi lại nhưng đã bị mất trộm và đăng kí xe trên Ngân gửi Hằng giữ hộ. Do vậy trả lại cho chị ĐTKN.

Đi với 01 BKS: 29Y3-486.88; 01 BKS 29T1-590.35; 01 BKS 30L3-936; 01 BKS 30L3-93601 đều là biển số giả do vậy cho tịch thu tiêu hủy..

Đi với 01 điện thoại Samsung Dual J7 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng hồng đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen đã qua sử dụng bên trong có lắp sim số 0852105234;;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus màu trắng vàng đã qua sử dụng bên trong có lắp sim số 0948214244: Quá trình điều tra xác định, các đồ vật trên là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Do vậy thấy cần tịch thu sung công.

Đi với số tiền 9.800.000 đồng thu giữ của Hằng thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do vậy trả lại cho bị cáo Hằng.

Đi với 01 thẻ ATM mang tên CVT thu giữ của Thành thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do vậy trả lại cho bị cáo Thành.

Đi với đối tượng tên Toàn và anh của Toàn: Do Hùng và Thành khai không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo NVH và CVT phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo NVH 30 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/9/2019 .

Xử phạt bị cáo CVT 30 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/9/2019 .

Tuyên bố các bị cáo PVB và TTH phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; Điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 và Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo PVB 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Bình cho Ủy ban nhân dân xã BĐ, huyện KX, tỉnh TB để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo TTH 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Hằng cho Ủy ban nhân dân xã VT, huyện VT, tỉnh TB để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Áp dụng Điều 47 và 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, 135, 299, 326, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật thi hành án.

Về dân sự: Không.

Tch thu tiêu hủy: 01 bộ vam phá khóa; 02 vam phá khóa bằng kim loại chiều dài khoảng 08 cm; 01 tay công phá khóa chiều dài 15 cm và 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007852 mang tên Nguyễn Văn Sơn; 01 BKS: 29Y3- 486.88; 01 BKS 29T1-590.35; 01 BKS 30L3-936 và 01 BKS 30L3-93601.

Tch thu sung công: 01 điện thoại Samsung Dual J7 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng hồng đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen đã qua sử dụng bên trong có lắp sim số 0852105234;; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus màu trắng vàng đã qua sử dụng bên trong có lắp sim số 0948214244.

Trả lại cho bị cáo Cao Văn Thành 01 thẻ ATM; Trả lại cho chị Đặng Thị Kim Ngân 01 chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 007321, biển số đăng kí 29B1- 094.20.

Tất cả hiện đang lưu giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự quận LB, thành phố Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 tháng 12 năm 2019.

Trả lại cho bị cáo Hằng 9.800.000 đồng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án quận LB theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 19 tháng 02 năm 2020.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:123/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về