Bản án 123/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 123/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 347/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2019/QĐXX-ST ngày 16 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Phi P, sinh năm 1987; cư trú tại: Ấp A, xã LT, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh Dương Văn C, sinh năm 1981; cư trú tại: Ấp H, xã NH, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, nguyên đơn, chị Nguyễn Phi P trình bày: Chị và anh Dương Văn C chung sống với nhau vào năm 2007, không có tổ chức lễ cưới. Đến ngày 28-6-2011 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NH. Thời gian đầu, vợ chồng thuê nhà chung sống với nhau tại ấp H, xã NH, huyện C, đến năm 2017 thì vợ chồng về nhà cha mẹ ruột của chị ở ấp A, xã LT, huyện C để sinh sống. Vợ chồng chung sống chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn, chẳng những không quan tâm chăm sóc vợ con mà còn gây gỗ và đánh đập chị gây thương tích. Chị đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh C không thay đổi, nên vợ chồng ngày càng mâu thuẫn trầm trọng. Do không sống được với nhau nữa nên chị và anh C đã sống thân từ tháng 2-2019 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với với anh C.

- Về con chung: Có 01 con chung là cháu Dương Lâm T, sinh ngày 27-01-2008, hiện nay cháu T đang ở với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, dù anh Dương Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh C không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị P, vắng mặt trong các phiên họp và tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Phi P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh C, đồng thời yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Phi P và anh Dương Văn C tranh chấp về ly hôn; anh C cư trú tại ấp H, xã NH, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy.

[2] Bị đơn, anh Dương Văn C không có đơn xin xét xử vắng mặt, đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh C.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Phi P và anh Dương Văn C là hợp pháp vì có đăng ký và được Ủy ban nhân dân xã NH, huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 8*/2011, quyển số 1, ngày 28-6-2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng một thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C thường xuyên cờ bạc, không quan tâm gì đến vợ con nên từ đó vợ chồng hay cự cãi, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Ngoài ra, anh C còn nhiều lần đánh đập chị trong đó có lần chị phải nhập viện điều trị vào ngày 04-7-2015 có giấy ra viện của Bệnh viện đa khoa khu vực C. Từ tháng 2-2019 đến nay, do không thể sống chung được nữa nên chị và anh C đã ly thân với nhau, trong khoảng thời gian này anh C cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh C không đến Tòa để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị P, cũng như để hàn gắn tình cảm vợ chồng nếu như còn yêu thương vợ nên xem như anh C đã không còn quan tâm đến hôn nhân của vợ chồng và tự mình từ bỏ nghĩa vụ chứng minh. Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” và “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Qua đó, Hội đồng xét xử nhận thấy giữa chị P và anh C đã không còn tình nghĩa vợ chồng, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không còn nên mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị P là có căn cứ.

[4] Về con chung: Giữa chị P và anh C có 01 con chung là cháu Dương Lâm T, sinh ngày 27-01-2008 hiện do chị P trực tiếp nuôi dưỡng, cháu T có nguyện vọng được sống với chị P sau khi cha mẹ ly hôn. Chị P yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T, anh C không có ý kiến gì về phần này. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con, tránh làm xáo trộn cuộc sống, tâm lý của cháu. Chị P không yêu cầu phía anh C cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, nếu sau này chị P có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về nợ chung, tài sản chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh C không có ý kiến gì về các vấn đề này, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Phi P là nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Phi P. Cho chị Nguyễn Phi P được ly hôn với anh Dương Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Dương Lâm T, sinh ngày 27-01-2008 cho chị Nguyễn Phi P trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Anh Dương Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị P chưa yêu cầu.

Anh Dương Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Phi P phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 16**4 ngày 09-7-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, nên xem như chị P đã thi hành xong án phí.

Chị Nguyễn Phi P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng cáo của anh Dương Văn C là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:123/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về