Bản án 123/2018/HSST ngày 19/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH  PHỐ NAM, ĐỊNH TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 123/2018/HSST NGÀY 19/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 112/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 112/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1982 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số A đường T, phường T1, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn V, sinh năm 1952 và bà: Bùi Thị H, sinh năm 1958; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: ngày 25-10-2017 Công an phường Phan Đình Phùng xử phạt hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; nhân thân: ngày 18-3-2002 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích), năm 2011 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 12 tháng (đã được xóa tiền sự); bị bắt, tạm giữ ngày 27-12-2017, chuyển tạm giam ngày 05-01-2018; có mặt.

Người làm chứng: Ông Hoàng Công C, ông Trần Huy L (Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa; vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng  20  giờ  45  phút  ngày  26-12-2017,  tổ  công  tác  Công  an  phường Trường Thi, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà B đường T, phường T1, thành phố N kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Văn T đang đi xe máy điện biển kiểm soát 18MĐ1-082.76. T đã tự giác giao nộp 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là 01 gói Heroine vừa mua để sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng, đồng thời tạm giữ của T chiếc xe máy điện biển kiểm soát 18MĐ1-082.76; đưa T cùng người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản kết luận giám định số 1084/GĐKTHS ngày 29-12-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy là Heroine, có trọng lượng (khối lượng) là 0,122 (không phẩy một trăm hai mươi hai) gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26-12- 2017, T đi xe máy điện từ nhà đến khu vực đường P, phường T1, thành phố NamĐịnh mua của một người thanh niên không rõ lai lịch 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng mục đích để sử dung. T cầm gói ma túy trên tay trái đi về thì bịCông an phát  hiện, bắt giữ.

Bản cáo trạng số 131/CT-VKSTPNĐ ngày 02 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T khai: Ngày 26-12-2017, bị cáo đi xe máy điện biển kiểm soát 18MĐ1-082.76 mượn của mẹ bị cáo đến khu vực đường P, phường T1, thành phố Nam Định mua của một người thanh niên không rõ lai lịch01 gói Heroine với giá 100.000 đồng mục đích để sử dụng. Bị cáo cầm gói Heroine trên tay trái đi về thì bị Công an phường Trường Thi thành phố Nam Định bắt quả tang.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận, ngày 26-12- 2017, bị cáo đã mua 01 gói ma túy cất giấu trong người mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang. Bản kết luận giám định số 1084/GĐKTHS ngày 29-12-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng thu giữ của bị cáo là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng là 0,122 (không phẩy một trăm hai mươi hai) gam. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng chứng kiến việc Công an phường Trường Thi, thành phố Nam Định lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy, là nguyên nhân dẫn tới nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 lần bị kết án đã được xóa án tích, nhiều lần bị xử lý hành chính nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định hình phạt nhẹ hơn so với quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì các quy định có lợi cho bị cáo được thực hiện theo Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù trong khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc xe máy điện biển kiểm soát 18MĐ1-082.76 là tài sản của bà Trần Thị H, sinh năm 1985, nơi cư trú: số C đường K, phường C, thành phố N (là mẹ đẻ của T), bà H không biết bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà H là đúng với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6- 2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-12-2017.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1084/GĐKTHS  (chi tiết vật chứng ghi trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02-4-2018 giữa Công an thành phố Nam Định và Chi cục Thi hành án thành phố Nam Định).

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2018/HSST ngày 19/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:123/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về