Bản án 123/2018/HNGĐ-ST ngày 23/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 123/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 5 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2018/HNGĐ-ST, ngày 26/01/2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05/4/2018, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1982

Địa chỉ: Tổ 1, phường H, thành phố T, tỉnh T.

Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1982

Địa chỉ: Tổ 1, phường H, thành phố T, tỉnh T. Anh L vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Ngọc L tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 23/11/2006 tại UBND xã Hưng Thành, thị xã Tuyên Quang (nay là UBND phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang), tỉnh Tuyên Quang. Trong thời gian 9 năm đầu vợ chồng chung sống bình thường không có vấn đề gì lớn tuy tính tình không hợp. Đến năm 2015cuộc sống vợ chồng của anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là về kinh tế không thống nhất, dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm, sống không hòa hợp và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Vợ chồng ly thân nhau từ tháng 12 năm 2015 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Chị Nguyễn Thị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và tiếp tục cùng chung sống với nhau được nữa nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc L.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Ngọc L có 01 con chung là Nguyễn Khôi N, sinh ngày 11/11/2007. Chị L đề nghị được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và vay nợ chung: Chị Nguyễn Thị L xác định chị và anh L không có tài sản chung, không vay nợ chung trong quá trình chung sống nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã gửi thông báo về việc vụ thụ lý vụ án (thông qua được bưu điện) và nhiều lần có giấy báo tống đạt hợp lệ cho anh Nguyễn Ngọc L (bằng hình thức niêm yết và gửi trực tiếp cho mẹ đẻ anh L là bà Nguyên Thị M chuyển cho anh L) đến Tòa án để giải quyết vụ án, nhưng anh L đều vắng mặt không có lý do và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Do vậy Tòa án không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ tại chính quyền địa phương và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Ngọc L là vợ chồng có đăng ký kết hôn ngày 23/11/2006 tại UBND phường Hưng Thành, thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố Tuyên Quang), tỉnh Tuyên Quang. Sau khi được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, anh chị về chung sống và nhập khẩu vào nhà anh L ở tổ 1, phường H, thành phố T. Chị L và anh L làm giáo viên dạy trường cấp 2, cấp 3 XV nên có thời gian anh chị ở tập thể của trường. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị bình thường đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Anh chị đã từng nộp đơn ly hôn gửi chính quyền địa phương nhờ hòa giải, sau khi tổ dân phố hoà giải anh chị rút đơn về tiếp tục chung sống. Tuy nhiên đến năm 2018, chị L khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị là do vợ chồng bất đồng về kinh tế, anh L nợ nần cá nhân nhiều, không quan tâm đến gia đình nên vợ chồng thường xuyên lục đục, dẫn đến cuộc sống chung không hòa hợp. Mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã được gia đình đôi bên hòa giải nhiều nhưng không có kết quả. Hiện anh chị L - L đã sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có 01 con chung, tên là Nguyễn Khôi N, sinh ngày 11/11/2007, hiện đang do chị L nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung anh chị không có.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các ý kiến như đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc L và giao con Nguyễn Khôi N, sinh ngày11/11/2007 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra chị không yêu cầu giải quyết vấn đề nào khác.

Anh Nguyễn Ngọc L vắng mặt tại phiên toà không có ký do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký tòa án khi thụ lý vụ án dến khi xét xử, của Hội đồng xét xử từ khi mở phiên tòa đến khi kết thúc đều thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự

 Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng còn bị đơn không chấp hành theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 56 Luật HNGĐ chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Nguyễn Ngọc L; giao con chung là Nguyễn Khôi N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung của anh L do chị L không yêu cầu. Về tài sản và vay nợ: không xem xét giải quyết do chị L xác định không có và không yêu cầu. Về án phí, chị L phải nộp án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ (gửi bảo đảm qua đường bưu điện và niêm yết theo quy định) các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn.

Bà Nguyễn Thị M (là mẹ đẻ của anh Nguyễn Ngọc L) xác định: anh L hiện đang chung sống với bà ở địa chỉ tổ 1, phường H, thành phố T. Bà đã nhận được thông báo thụ lý vụ án ly hôn giữa chị L với anh L và nhiều lần nhận được giấy báo của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang gửi cho anh L qua bưu điện và tống đạt trực tiếp. Sau khi nhận giấy, bà đã gọi điện thông báo nội dung và chuyển giấy tờ của Tòa án cho anh L. Anh L có nói với bà về việc biết chị L gửi đơn ly hôn tại Toà án, anh cũng đã ký vào đơn ly hôn của chị L nhưng vì lý do cá nhân anh không thể đến Toà án giải quyết việc ly hôn. Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã tiến hành niêm yết và gửi các văn bản tố tụng cho đương sự theo quy định. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Ngọc L là đúng quy định pháp luật.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Ngọc L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 23/11/2006 tại UBND phường Hưng Thành, thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố Tuyên Quang), tỉnh Tuyên Quang, như vậy quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn trong sinh hoạt hàng ngày chủ yếu là do bất đồng về kinh tế, dẫn đến cuộc sống chung không hòa hợp, đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2015 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn vợ chồng của anh chị cũng đã được chính quyền địa phương và gia đình đôi bên hòa giải nhưng không thành. Chị Nguyễn Thị L đề nghị Toà án giải quyết ly hôn.

Qua việc điều tra, xác minh thể hiện cuộc sống chung của chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Ngọc L có nhiều mâu thuẫn dẫn đến hiện đang sống ly thân. Như vậy, có cơ sở cho thấy hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ tiếp tục chung sống. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc L là phù hợp quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Ngọc L có 01 con chung là Nguyễn Khôi N, sinh ngày 11/11/2007 hiện đang do chị L nuôi dưỡng. Xét hoàn cảnh thực tế và yêu cầu của chị L nên chấp nhận giao con chung của anh chị cho chị L là người trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị L không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Linh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vay nợ: Chị Nguyễn Thị L xác định chị và anh L không có vay nợ chung trong quá trình chung sống nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Anh Nguyễn Ngọc L không phải chịu án phí. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28; 35; 147, khoản 2 Điều 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc L.

2. Về con chung: Xử giao con chung là Nguyễn Khôi N, sinh ngày 11/11/2007 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Nguyễn Ngọc L không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do hiện tại chị L không yêu cầu). Anh Nguyễn Ngọc L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0005067 ngày 26/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Chị L đã nộp đủ án phí. Anh Nguyễn Ngọc L không phải chịu án phí.

Chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Ngọc L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2018/HNGĐ-ST ngày 23/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:123/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về