Bản án 123/2017/HSST ngày 27/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 123/2017/HSST NGÀY 27/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 27 tháng 11 năm 2017, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2017/HSST, ngày 30 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Võ Văn P; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 23/01/1988, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn B, xã N, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; con ông Võ Văn Đ, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Ngọc P1, sinh năm 1970; vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1993 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Từ nhỏ sống cùng gia đình và đi học tại xã N, huyện, tỉnh Đắk Lắk, học hết lớp 11 thì nghỉ học. Ngày 29/7/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội: Cướp tài sản, ngày 06/7/2011 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H'Leo áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/9/2017. Có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bị hại: Ông Trần Huy Đ - sinh năm 1958. Cư trú tại: Thôn 4, xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk (đã chết).

+ Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Trần Thị Vân A - sinh năm 1985; Cư trú tại: Tổ dân phố A1, thị trấn D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk; Trần Thị H3– sinh năm 1989.

Cư trú tại: Tổ dân phố A2, thị trấn D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk; Trần Huy H1 – sinh năm 1987 và Trần Huy H2 – sinh năm 1991. Đều cư trú tại: Thôn 4, xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Là các con đẻ của ông Trần Huy Đ.

Chị Trần Thị Vân A, anh Trần Huy H1, anh Trần Huy H2 đã ủy quyền tham gia tố tụng cho chị Trần Thị H3 – sinh năm 1989. Cư trú tại: Tổ dân phố A2, thị trấn D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk (theo văn bản ủy quyền ngày 03/11/2017, chị H3 có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Minh T – sinh năm 1971.

Cư trú tại: Tổ dân phố A3, thị trấn D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Thanh Đ – sinh năm 1977. Cư trú tại: Thôn 3, xã S, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

+ Anh Võ Thanh T – sinh năm 1996. Cư trú tại: Thôn 6A, xã M, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.

+ Cháu Phạm Hồng D – sinh ngày 10/02/2002. Cư trú tại: Thôn 6A, xã M, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.

Người đại diện hợp pháp của cháu Phạm Hồng D có ông Phạm C – sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị T – sinh 1963 (là bố mẹ đẻ của cháu D). Đều cư trú tại: Thôn 6A, xã M, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. (cháu D có mặt, ông C và bà T đều vắng mặt.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ văn P là người đã có giấy phép lái xe ô tô hạng C. Vào khoảng 19 giờ ngày 15 tháng 9 năm 2017, Võ Văn P điều khiển xe ô tô tải biển số 47C-121.66 đi từ xã S, huyện E về hướng thị trấn D, huyện E và đi bên phải theo chiều đi của mình. Khi P điều khiển xe ô tô đi đến đoạn đường thuộc thôn 3, xã S, huyện E, thì phát hiện phía trước bên phải đường theo chiều đi của P cách khoảng 50m có xe mô tô 47H6-8750 do ông Trần Huy Đ điều khiển đi theo chiều ngược lại (thị trấn D đi xã S) và đi bên trái phần đường của xe mô tô. Thấy vậy, P điều khiển xe ô tô 47C-121.66 đi sang phần bên trái theo chiều đi của mình để tránh xe mô tô 47H6-8750 thì xảy ra va chạm với xe mô tô 47H6-8750 do ông Trần Huy Đ điều khiển. Vụ tai nạn xảy ra làm ông Trần Huy Đ chết; xe mô tô 47H6-8750 và xe ô tô 47C-121.66 bị hư hỏng.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H'Leo, lập lúc 20 giờ 40 phút ngày 15 tháng 9 năm 2017, thể hiện: Hiện trường xảy ra sự việc là đường Tỉnh lộ 15 thuộc thôn 3, xã S, huyện E. Đoạn đường có lòng đường rộng 6,5m, mặt đường nhựa, ở giữa lòng đường có vạch sơn đứt đoạn chia lòng đường thành hai chiều đi lại bằng nhau. Đây là đoạn đường thẳng, tầm nhìn không bị che khuất. Lấy trụ điện số 200/137 ở bên mép đường hướng Bắc, cách mép đường nhựa 6,2m, cách điểm đầu của vết lốp xe ô tô là 9,5m làm điểm cố định. Lấy mép đường bên trái theo hướng từ xã Y đi xã S làm mép đường chuẩn, xác định: Tại hiện trường, trong lòng đường nhựa có vết lốp xe ô tô dài 21,8m, rộng 40cm, điểm đầu của vết này nằm cách mép đường chuẩn là 3,3m, vết dài về phía Tây Nam. Điểm cuối của vết này là trục sau bên trái của xe ô tô 47C-121.66 nằm ở ngoài lề đường, trục sau bên phải của xe này nằm ở trong lòng đường, cách mép đường chuẩn là 5,15m. Trục trước bên phải của xe này nằm cách mép đường chuẩn là 5,75m, đầu xe hướng về xã Y. Từ điểm đầu của vết lốp xe ô tô cách 15,4m về hướng Tây và là điểm đầu của vết in hằn trên mặt đường nằm cách mép đường chuẩn là 4,3m, vết dài 1m, rộng 15cm, vết này dài về hướng Tây, điểm cuối vết này nằm cách mép đường chuẩn là 4,5m. Qua công tác khám nghiệm hiện trường xác định điểm va chạm nằm tại điểm đầu của vết in hằn nằm cách mép đường chuẩn là 4,3m.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi hồi 23 giờ 35 phút ngày 15 tháng 9 năm 2017, của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo, đã xác định: Tử thi Trần Huy Đ có thể trạng trung bình, tình trạng tử thi lạnh mềm. Vết thương trán rách da nham nhở có 2 vết, vết 1 kích thước 4cm x 0,5cm; vết 2 kích thước 2cm x 1cm x 0,5cm, không vỡ lún xương trán; sưng bầm tụ máu hốc mắt phải, rách da mi trên mắt phải kích thước 1cm x 0,5cm; gãy vỡ xương hàm; gãy di lệch 1/3 xương đòn phải; gãy giữa cung sườn trước ngực trái; gãy xương sườn 3, 4, 5, 6, 7, 8; gãy cung sườn 7, 8, 9 trên đường nách b ên phải….

Tại bản kết luận pháp y tử thi số 389/PY-TgT ngày 26/9/2017, của Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk kết luận nguyên nhân tử vong của Trần Huy Đ là choáng đa thương do tai nạn giao thông.

Tại biên bản khám nghiệm phương tiện giao thông do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện lập vào ngày 15 tháng 9 năm 2017, xác định:

Xe mô tô 47H6-8750 gương chiếu hậu bên trái bị gãy rời khỏi vị trí ban đầu; toàn bộ hộp đèn bao gồm đèn chiếu sáng phía trước, đèn chuyển hướng bên trái, bên phải phía trước bị bể vỡ hoàn toàn; phần kim loại bảo vệ cần đạp phanh phía sau có dấu vết mài mòn thanh kim loại; gác chân phía trước bên phải phần cao su bị mài mòn phía ngoài và phần kim loại phía trong; vành xe bánh sau bị cong vênh; lốp sau phía bên trái ngay hàng chữ Nilon ngược chiều quay tiến có dấu vết mài mòn và trầy trượt phần cao su.

Xe ô tô 47C-121.66 gương chiếu hậu bên phải bị gãy rời khỏi vị trí ban đầu; toàn bộ đèn chiếu sáng và đèn chuyển hướng bên phải phía trước bị bể vỡ hoàn toàn kích thước 50cm x 30cm; cảng xe bằng nhựa phía trước bên phải ngay vị trí dưới đèn chiếu sáng bị bể, móp lún hướng từ trước về sau so với vị trí ban đầu 40cm; kính chắn gió lên xuống bên phải và bên trái bị bể vỡ hoàn toàn. Hệ thống lái, hệ thống phanh, hệ thống côn, hệ thống ga, hệ thống đèn, còi đều hoạt động bình thường.

Tại biên bản định giá tài sản số 875/BB-ĐGTS ngày 10/10/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E, kết luận: Các bộ phận hư hỏng của xe mô tô 47H6-8750, trị giá 1.400.000 đồng.

Như vậy, hành vi của Võ Văn P đã vi phạm khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

Tại khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ năm 2008, quy định:“ Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình”

Trong quá trình điều tra Công an huyện Ea H'Leo đã tạm giữ chiếc xe mô tô 47H6-8750; xe ô tô 47C-12166; 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Võ Văn P; 01 chứng nhận đăng ký và 01 kiểm định xe ô tô xe ô tô 47C-12166. Sau khi xác định được chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả chiếc xe ô tô 47C- 12166, 01 chứng nhận đăng ký và 01 kiểm định xe ô tô 47C-12166 cho ông Trương Minh T. Giao trả chiếc xe mô tô 47H6-8750 cho bà Trần Thị H3.

Trong quá trình điều tra, ông Trương Minh T chủ xe ô tô 47C-12166 đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại tiền chi phí mai táng và các chi phí khác là 150.000.000 đồng và sửa chữa lại chiếc xe mô tô 47H6-8750 của ông Trần Huy Đ. Bà Trần Thị H3 đại diện cho gia đình người bị hại đã viết đơn bãi nại và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Đối với thiệt hại của chiếc xe ô tô 47C-121.66 ông Trương Minh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường và chi phí sửa chữa lại chiếc xe mô tô 47H6-8750 của ông Trần Huy Đởn.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo Võ Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 111/KSĐT-HS ngày 30/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, đã truy tố Võ Văn P, về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn P, phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;

Áp dụng khoản 1 Điều 202; các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 BLHS.

Xử phạt bị cáo Võ Văn P: Từ 12 (mười hai) tháng tù đến 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bằng hai lần mức án tòa tuyên.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị HĐXX chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả chiếc xe ô tô 47C-121.66, 01 chứng nhận đăng ký và 01 kiểm định xe ô tô xe ô tô 47C-121.66 cho ông Trương Minh T. Giao trả chiếc xe mô tô 47H6-8750 cho bà Trần Thị H3.

Đề nghị HĐXX tuyên trả cho bị cáo Võ Văn P 01 giấy phép lái xe số AR 715830 mang tên Võ Văn P do sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 14/4/2014 và 01

Giấy chứng minh nhân dân số 240964612 mang tên Võ Văn P do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 06/8/2004.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; các Điều 585, 586, 589, 591 Bộ luật dân sự, chấp nhận việc ông Trương Minh T đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 150.000.000 đồng.

Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về phần trách nhiệm dân sự. Đồng thời đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về nội dung:

Tại phiên tòa bị cáo P khai nhận: Vào khoảng 19 giờ ngày 15 tháng 9 năm 2017, sau khi giao hàng xong, bị cáo P điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 47C-121.66 của anh Trương Minh T từ xã S về thị trấn D, lưu thông trên tỉnh lộ 15. Khi đến gần UBND xã S thuộc địa phận thôn 3, xã S, huyện E, tỉnh Đăk Lăk thì phát hiện phía trước bên phải đường theo chiều đi của P cách khoảng 50m có xe mô tô 47H6-8750 do ông Trần Huy Đ điều khiển đi theo chiều ngược lại và đi bên trái phần đường của xe mô tô. Thấy vậy, P điều khiển xe ô tô 47C-121.66 đi sang phần bên trái theo chiều đi của mình để tránh xe mô tô 47H6-8750 thì xảy ra va chạm xảy ra va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 47H6-8750 do ông Trần Huy Đ điều khiển. Hậu quả làm ông Trần Huy Đ bị chết, xe ô tô tải biển kiểm soát 47C-121.66 và xe mô tô biển kiểm soát 47H6-8750 đều bị hư hỏng một số bộ phận.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp sơ đồ và biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, phù hợp với bản kết luận pháp y, phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 15 tháng 9 năm 2017, tại đường Tỉnh lộ 15 thuộc địa phận thôn 3, xã S, huyện E, bị cáo Võ Văn P đã có hành vi điều khiển xe ô tô tải 47C-12166, tránh xe ngược chiều không đúng quy định gây tai nạn với xe mô tô 47H6-8750 do ông Trần Huy Đ điều khiển đi chiều ngược lại. Hậu quả làm ông Trần Huy Đ bị chết; xe mô tô 47H6-8750 và xe ô tô tải 47C-12166 đều bị hư hỏng, gây thiệt hại cho xe mô tô 47H6-8750 là 1.400.000 đồng.

Như vậy, hành vi của bị cáo Võ Văn P đã vi phạm khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

Tại khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ năm 2008, quy định:“ Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình”

Do đó, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến an toàn công cộng, xâm hại đến sức khoẻ và tính mạng của người khác. Vì vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo đối với bị cáo Võ Văn P, về tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại Điều 202 BLHS quy định:

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm qui định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

Xét mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo P là công dân có đầy đủ nhận thức, đã được học luật giao thông đường bộ và được cấp giấy phép lái xe hạng C nên bị cáo biết rõ khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông phải chấp hành nghiêm túc luật giao thông đường bộ. Việc bị cáo không tuân thủ đúng quy định của luật giao thông đường bộ khi tránh xe ngược chiều, nên đã xảy ra va chạm với xe mô tô 47H6-8750 do ông Trần Huy Đ điều khiển. Hậu quả làm ông Trần Huy Đ chết; xe mô tô 47H6-8750 và xe ô tô tải 47C-12166 đều bị hư hỏng, gây thiệt hại cho xe mô tô 47H6-8750 là 1.400.000 đồng. Hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự an toàn giao thông tại địa phương nên bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật do hành vi của bị cáo đã gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng một mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo nhằm bảo đảm tác dụng cải tạo giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

 [2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã tác động ông Trương Minh T là chủ xe ô tô để bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 150.000.000 đồng, được gia đình người bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Tại phiên toà, người đại diện hợp pháp của bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo. Như vậy, bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy tại các điểm b, p khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, xét đề nghị của đại diện viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng bằng biện pháp có điều kiện, cũng đảm bảo tính giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong quá trình điều tra, ông Trương Minh T chủ xe ô tô 47C-12166 đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại tiền chi phí mai táng và các chi phí khác là 150.000.000 đồng và sửa chữa lại chiếc xe mô tô 47H6-8750 của ông Trần Huy Đ. Bà Trần Thị H3 đại diện cho gia đình bị hại đã viết đơn bãi nại và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, ông Tẩm cũng không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 150.000.000 đồng mà ông Tẩm đã đưa cho gia đình người bị hại nên không đặt ra để xem xét, giải quyết.

Đối với thiệt hại của chiếc xe ô tô 47C-121.66 ông Trương Minh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đặt ra để xem xét, giải quyết.

Đối với 01 giấy phép lái xe số AR 715830 mang tên Võ Văn P do sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 14/4/2014 và 01 Giấy chứng minh nhân dân số 240964612 mang tên Võ Văn P do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 06/8/2004. Đây là các giấy tờ không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo Võ Văn P.

Các biện pháp tư pháp :

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra công an huyện Ea H’Leo đã giao trả 01 chiếc xe ô tô 47C-121.66, 01 chứng nhận đăng ký và 01 kiểm định xe ô tô xe ô tô 47C- 121.66 cho ông Trương Minh T là chủ sở hữu hợp pháp. Giao trả 01 chiếc xe mô tô 47H6-8750 của ông Trần Huy Đ cho bà Trần Thị H3 là người quản lý hợp pháp. Xét việc công an huyện Ea H’Leo đã giao trả các tài sản trên là có căn cứ, phù hợp với khoản 2 Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS, cần chấp nhận.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; các Điều 585, 586, 589, 591 Bộ luật dân sự, chấp nhận việc ông Trương Minh T đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của người bị hại bà Trần Thị H3 không yêu cầu gì thêm về phần bồi thường đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bị cáo P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn P, phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;

Áp dụng khoản 1 Điều 202; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Võ Văn P: 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong thời gian thử thách, giao bị cáo Võ Văn P cho UBND xã N, huyện E, tỉnh Đăk Lăk giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Các bịện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự, điểm b khoản  Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc công an huyện Ea H’Leo đã giao trả 01 chiếc xe ô tô 47C-121.66, 01 chứng nhận đăng ký và 01 kiểm định xe ô tô xe ô tô 47C-121.66 cho ông Trương Minh T là chủ sở hữu hợp pháp. Giao trả 01 chiếc xe mô tô 47H6-8750 của ông Trần Huy Đ cho bà Trần Thị H3 là người quản lý hợp pháp.

Tuyên trả cho bị cáo Võ Văn P: 01 giấy phép lái xe số AR 715830 mang tên Võ Văn P do sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 14/4/2014 và 01 Giấy chứng minh nhân dân số 240964612 mang tên Võ Văn P do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 06/8/2004.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; các Điều 585, 586, 589, 591 Bộ luật dân sự, chấp nhận việc ông Trương Minh T đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của người bị hại bà Trần Thị H3 không yêu cầu gì thêm về phần bồi thường đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bị cáo Võ Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2017/HSST ngày 27/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:123/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về