TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THUỴ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 123 /2017/HSST NGÀY 17/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 11 năm 2017, tại phòng xét xử hình sự Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 123/2017/HSST ngày 06 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo :
1. Phạm Xuân D, sinh ngày 26/01/1992; Nơi ĐKHKTT: thôn T, xã X, huyện V, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; Bố đẻ: Phạm Văn Hưởng, sinh năm 1968; mẹ đẻ Vũ Thị Yến, sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ con;
Tiền án: Không;
Tiền sự: Năm 2013 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định số 1884/QĐ-UB ngày 29/8/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình đến ngày 22/9/2015 chấp hành xong thời hạn đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc.
Tạm giữ từ ngày 19/7/2017 đến ngày 22/7/2017 chuyển tạm giam đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)
*Người bị hại:
- Anh Trương Tuấn V, sinh năm 1994
Địa chỉ: thôn V, xã H, huyện T, tỉnh Thái Bình.
(Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào 08 giờ ngày 06/4/2016, Nguyễn Văn Q, sinh năm 1992 trú tại : thôn Thái, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình rủ Phạm Xuân D đi trộm cắp tài sản. Cả hai điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17L1-0979 của Q đi tới thôn Văn Hàn Tây, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình thì phát hiện 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream, Q nói với D “Có con xe trộm cắp được’’ đồng thời dừng xe máy để Dương đứng cảnh giới; Quốc dùng vam phá khóa mang theo mở khóa xe và nổ máy đi về thành phố Thái Bình; D đi xe máy của Quốc theo sau. Tới địa phận xã Đông Hoàng, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình thì Quốc bị bắt giữ. Phạm Xuân D điều khiển xe máy tới gửi ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình rồi bỏ trốn đến ngày 19/7/2017 Dương bị bắt theo quyết định truy nã.
Bản kết luận định giá tài sản số 11/KL – GĐ ngày 14/4/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thái Thụy kết luận xe máy mà D và Quốc trộm cắp có giá trị là 15.000.000 đồng
Bản cáo trạng số 120/KSĐT ngày 04 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố Phạm Xuân D về tội "Trộm cắp tài sản’’ theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm về tội danh như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Xuân D từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù giam.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Phạm Xuân D là thanh niên trưởng thành, đủ nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng đã cùng Nguyễn Văn Q lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu đã trộm cắp 01 xe máy trị giá 15.000.000 đồng, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố đối với Dương là đúng người, đúng tội.
[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo Phạm Xuân D đã từng Trộm cắp tài sản bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc nhưng vẫn thiếu ý thức tu dưỡng, học tập và rèn luyện nay lại tiếp tục trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo Phạm Xuân D có 01 tiền sự, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào ; bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
[5] Trách nhiệm hình sự:
Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng Điều 33, Điều 45 Bộ luật hình sự xử phạt tù giam và áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Trong vụ án này Nguyễn Văn Q cùng tham gia trộm cắp với D đã bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy kết án theo bản án số 67/2016/HSST ngày 06/9/2016; Ngoài ra trong quá trình điều tra Phạm Xuân D còn khai nhận ngoài lần trộm cắp xe máy ngày 06/4/2016 Q và D còn trộm cắp 01 xem máy vào tháng 2/2016 tại xã Vũ Vinh, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, hành vi này Quốc đã bị kết án theo bản án số 61/2016/HSST ngày 29/9/2016 của Tòa án Vũ Thư; Ngày 21/9/2017 Phạm Xuân D bị Công an huyện Vũ Thư ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố Phạm Xuân D để điều tra theo thẩm quyền.
[6] Trách nhiệm dân sự.
Người bị hại là anh Trương Tuấn V đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì nên không đặt ra việc giải quyết.
[7] Xử lý vật chứng.
Vật chứng của vụ án đã được xử lý theo bản án hình sự số 67/2016/HSST ngày 06/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
[8] Án phí: Bị cáo Phạm Xuân D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm Vì các lẽ trên,
1. Tuyên bố:
QUYẾT ĐỊNH
Bị cáo Phạm Xuân D phạm tội “Trộm cắp tài sản”
2. Hình phạt:
Áp dụng khoản 1 điều 138; Điều 33; Điều 45; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Xuân D 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/7/2017 .
3. Về án phí:
Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Mục I danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án Nghị quyết 326/2016//UBTVQH14 ngày 30/12/2016 bị cáo Phạm Xuân D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Căn cứ vào Điều 231, Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 123/2017/HSST ngày 17/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 123/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về