TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 122/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Trong ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 51/2021 TL T- HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:32/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2021 QĐ T-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Gò Công Tây, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngô Thị H, sinh năm 1985.
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn: Phạm Hồng T, sinh năm 1990.
Địa chỉ: khu phố 6, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
(Chị H có mặt; anh T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn và các lời trình bày tại tòa nguyên đơn chị Ngô Thị H trình bày:
Chị và anh Phạm Hồng T cưới nhau năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn V. au khi cưới anh chị sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng, anh H đi làm thường nhậu về chửi bới chị, vợ chồng thường gây gỗ, anh T không phụ chị lo cho gia đình. Anh chị ly thân từ tháng 11 2020 đến nay, nay xét thấy tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc và không thể hàn gắn lại được.
Về quan hệ tình cảm: Chị yêu cầu ly hôn với anh Phạm Hồng T.
Về con chung: Có 01 con tên Phạm Châu Tường V, sinh ngày 26 02 2015, hiện con đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Trước đây chị có yêu cầu khởi kiện yêu cầu anh T chia đôi tài sản chung là 01 cái ti vi hiệu amsung và 01 sợi dây chuyền 02 chỉ vàng 24K. Nay chị xin rút yêu cầu khởi kiện về tài sản chung.
Về nợ chung: Không có.
* Bị đơn anh Phạm Hồng T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh T vẫn vắng mặt và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đã chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của chị Ngô Thị H, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị H về việc xin ly hôn, về yêu cầu nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
au khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời trình bày của của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn chị Ngô Thị H yêu cầu ly hôn với anh Phạm Hồng T, yêu cầu được nuôi con chung, chia tài sản khi ly hôn nên Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại G theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét bị đơn anh Phạm Hồng T đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt anh T.
[3] Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện:
Tại phiên tòa nguyên đơn chị Ngô Thị H vẫn giữ ý kiến xin rút yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung đối với 01 tivi hiệu samsung và 01 sợi dây chuyền 02 chỉ vàng 24K, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị H rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.
[4] Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị H, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[4.1] Về tình cảm: Chị Ngô Thị H và anh Phạm Hồng T cưới nhau năm 2014, do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn V là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H xin ly hôn với anh T với lý do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh H đi làm thường nhậu về chửi bới chị H, vợ chồng thường gây gỗ, anh T không phụ chị H lo cho gia đình, chị H và anh T đã sống ly thân từ tháng 10 2020 đến nay. Tại phiên tòa chị H vẫn cương quyết yêu cầu xin ly hôn với anh T, phía anh Tđã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa cho thấy anh T không có thành ý cứu vãn cuộc hôn nhân giữa anh chị. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị Ngô Thị H là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.
[4.2] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi cháu Phạm Châu Tường V, sinh ngày 26/02/2015 của chị H là có cơ sở vì cháu V đang sống với chị Hiếu đã ổn định về chỗ ở, về điều kiện sinh hoạt. Phía anh T không có văn bản trình bày ý kiến về việc nuôi dưỡng cháu V và vắng mặt tại phiên tòa cho thấy anh T đã từ bỏ quyền yêu cầu nuôi dưỡng cháu V. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị H, giao cháu V cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
[4.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh Thái cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4.4] Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.
[4.5] Về nợ chung: Chị H khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Ngô Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
[6] Xét ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.
- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị H đối với việc chia tài sản chung gồm 01 tivi hiệu samsung và 01 sợi dây chuyền 02 chỉ vàng 24K.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị H.
Về tình cảm: Chị Ngô Thị H được ly hôn với anh Phạm Hồng T.
Về con chung: Giao cháu Phạm Châu Tường V, sinh ngày 26/02/2015 cho chị Ngô Thị H nuôi dưỡng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi, lao động được.
Anh Phạm Hồng T được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung sau khi ly hôn. Trường hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Về án phí: Chị Ngô Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; được trừ vào 600.000 đồng tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu số 0017165 ngày 19/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, do vậy chị H được hoàn lại 300.000 đồng.
Báo nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. .
Bản án 122/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 122/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về