Bản án 122/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 122/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 08 tháng 4 năm 1970 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Đường L, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị G (đã chết); chưa có vợ, con; tiền án: Tại Bản án số 107/2016/HSST ngày 16/12/2016, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 36 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 19/6/2020, tạm giam ngày 20/6/2020; có mặt.

2. Đỗ Việt T, sinh ngày 21 tháng 3 năm 1990 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường Đ, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn P và bà Trần Thị M; có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và có 01 con; nhân thân, tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 19/6/2020, tạm giam ngày 20/6/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Việt T khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 18/6/2020, Đỗ Việt T một mình đi bộ đến nhà Nguyễn Ngọc T ở số 4/11/224 đường An Đà, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng để mua ma túy đá về sử dụng. Đến nơi, T gặp và hỏi mua của Ngọc T 500.000 đồng được 01 gói nilon kích thước khoảng 2x2 cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá. Mua được ma túy đá T cất giấu vào trong hộp kính và để trong túi quần bên phải đang mặc của T và đi đến phòng 401 Khách sạn Trường An 2, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng gặp Phạm Thị T (là bạn của T) để nói chuyện. Tại đây, T và Phạm T ngồi chơi đến khoảng 00 giờ 30 ngày 19/6/2020, Công an quận Ngô Quyền vào kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc T khai nhận: Do hoàn cảnh khó khăn, nên khoảng tháng 6/2020 Nguyễn Ngọc T nảy sinh ý định mua ma túy đá về bán kiếm lời. Khoảng 16 giờ ngày 16/6/2020, Ngọc T đến đường tàu Cát Cụt, Lê Chân, Hải Phòng gặp và hỏi mua của một người đàn ông không quen biết 1.800.000 đồng được 01 gói nilon kích thước khoảng 5x7 cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá. Người đàn ông bán ma tuý còn cho Ngọc T 01 cân tiểu ly và một số túi nilon kích thước các loại. Mua được ma túy, Ngọc T mang về nơi ở. Tại đây, Ngọc T lấy gói ma túy vừa mua được dùng ống hút nhựa màu xanh dài khoảng 4 cm, cắt vát một đầu, xúc ma túy đá chia thành 11 gói nilon nhỏ gồm: 05 gói nilon kích thước mỗi gói 2x2 cm bên trong có chứa ma tuý đá, mỗi gói nilon có kích thước trên Ngọc T bán với giá 500.000 đồng và 06 gói nilon kích thước mỗi gói 1x1,5 cm bên trong chứa ma túy đá, mỗi gói nilon có kích thước trên Ngọc T bán với giá 200.000 đồng. Nếu bán trót lọt số ma tuý trên Ngọc T sẽ được 3.700.000 đồng, thu lợi được 1.900.000 đồng. Sau đó, Ngọc T cất giấu 05 gói nilon kích thước mỗi gói khoảng 2x2cm vào 01 hộp phấn hình tròn đường kính khoảng 6cm và để trên nóc tủ giầy; 06 gói nilon mỗi gói có kích thước khoảng 1x1,5cm vào trong 01 hộp giấy hình trụ tròn, màu đỏ đường kính khoảng 8cm và để trên mặt ban thần tài. Đến khoảng 23 giờ ngày 18/6/2020, T đến hỏi mua 500.000 đồng ma tuý đá, Ngọc T nhận tiền và đưa cho T 01 gói nilon đựng ma tuý đá kích thư ớc khoảng 2x2 cm. Đến khoảng 10 giờ 00 ngày 19/6/2020, Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Ngọc T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: Công an quận Ngô Quyền thu trong hộp kính trong túi quần áo của T 01 gói nilon màu trắng kích thước khoảng 2x2 cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong mẫu số 1).

Khám xét nơi ở của Nguyễn Ngọc T, cơ quan Công an quận Ngô Quyền thu giữ:

 - Thu trên nóc tủ giầy: 01 hộp phấn hình tròn đường kính khoảng 6 cm bên trong có 04 gói nilon kích thước mỗi gói khoảng 2x2cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (niêm phong mẫu số 2).

- Thu trên mặt ban thờ: 01 hộp giấy hình trụ tròn, màu đỏ đường kính khoảng 8 cm bên trong chứa 06 gói nilon mỗi gói có kích thước khoảng 1x1,5cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (niêm phong mẫu số 3).

- Thu trên chạn bếp: 01 cân tiểu ly màu đen.

- Thu trên mặt bàn trong bếp: các vỏ túi nilon kích thước các loại, 01 ống hút nhựa màu xanh dài khoảng 4cm có một đầu bị cắt vát.

Tại bản Kết luận giám định số 378/KLGĐ-MT ngày 20 tháng 6 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

- Tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định của T là ma túy, có khối lượng: 0,53 gam, là loại: Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng của mẫu số 2 gửi giám định của Tú là ma túy, có khối lượng: 1,38 gam, là loại: Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng của mẫu số 3 gửi giám định của Tú là ma túy, có khối lượng: 1,20 gam, là loại: Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 30/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy t ố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và Đỗ Việt T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng và xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Ngọc T với mức án từ 42 tháng đến 48 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đỗ Việt T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 378/2020/PC09 ngày 18/02/2020 bên trong chứa chất ma tuý và vỏ bao bì hoàn lại sau giám định; 01 hộp giấy hình trụ tròn, màu đ ỏ đường kính khoảng 8 cm; 01 hộp phấn hình tròn đường kính khoảng 6 cm; 01 cân tiểu ly màu đen; các vỏ túi nilon kích thước các loại, 01 ống hút nhựa màu xanh dài khoảng 4cm có một đầu bị cắt vát.

- Trong vụ án này, Phạm Thị T không biết việc T cất giấu ma tuý nên không phạm tội. Người đàn ông bán ma tuý cho Ngọc T chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau..

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đư ợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã th ực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

[3] Bị cáo Nguyễn Ngọc T đã có hành vi bán trái phép 0,53 gam Methamphetamine cho Đỗ Việt T và cất giữ trái phép 2,58 gam Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời. Tại thời điểm thực hiện hành vi trên, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc T đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[4] Bị cáo Đỗ Việt T đã mua trái phép 0,53 gam Methamphetamine của Nguyễn Ngọc T và cất giấu trong người để sử dụng cho bản thân. Việc cất giấu chất ma túy của bị cáo không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Tại thời điểm thực hiện hành vi trên, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo Đỗ Việt T đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo về tội danh cũng như đi ều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[6] Bị cáo Đỗ Việt T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Ngọc T có 01 tiền án: Tại Bản án số 107/2016/HSST ngày 16/12/2016, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 36 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, đến nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Quá trình đi ều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục các bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

+ Về áp dụng hình phạt bổ sung:

[9] Xét các bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

+ Về xử lý vật chứng:

[10] Do chất ma túy là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và vỏ bao bì hoàn lại sau giám định; 01 hộp giấy hình trụ tròn, màu đỏ đường kính khoảng 8 cm; 01 hộp phấn hình tròn đường kính khoảng 6 cm; 01 cân tiểu ly màu đen; các vỏ túi nilon kích thước các loại, 01 ống hút nhựa màu xanh dài khoảng 4cm có một đầu bị cắt vát đều là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Trong vụ án này, Phạm Thị T không biết việc bị cáo Đỗ Việt T cất giấu ma tuý nên không phạm tội.

[12] Người đàn ông bán ma tuý cho Nguyễn Ngọc T chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

+Về án phí:

[13] Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Đỗ Việt T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

+ Về quyền kháng cáo:

[14] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Ngọc T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 6 năm 2020.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Đỗ Việt T 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 6 năm 2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 378/2020/PC09 ngày 18/02/2020 bên trong chứa chất ma tuý và vỏ bao bì hoàn lại sau giám định; 01 hộp giấy hình trụ tròn, màu đỏ đường kính khoảng 8 cm; 01 hộp phấn hình tròn đường kính khoảng 6 cm; 01 cân tiểu ly màu đen; các vỏ túi nilon kích thước các loại, 01 ống hút nhựa màu xanh dài khoảng 4cm có một đầu bị cắt vát theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Đỗ Việt T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Đỗ Việt T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:122/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về