Bản án 122/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 122/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 142/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Ngọc T, sinh năm 1992. (có mặt)

Đa chỉ: Ấp H, xã X, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Anh Võ C, sinh năm 1990. (vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 26 tháng 11 năm 2018 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn Chị Phạm Ngọc T trình bày: Chị và Anh Võ C cưới nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 12/7/2012. Đến năm 2015, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, Anh C không lo làm ăn, ham mê cờ bạc, uống rượu về đánh đập Chị. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc nên Chị xin ly hôn với Anh C.

Về con chung: Quá trình chung sống, Chị và Anh C có một con chung tên Võ Công S, sinh ngày 21/01/2013, con hiện đang sinh sống với Chị. Khi ly hôn, Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu Anh C cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Chị nêu không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị nêu không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Chị T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng Anh C vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Phạm Ngọc T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với Anh Võ C; Anh C hiện có hộ khẩu thường trú tại Ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An (Công an xã xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn Anh C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và Anh C chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 12/7/2012 nên hôn nhân giữa Anh Chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, Chị T cho rằng năm 2015, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, Anh C không lo làm ăn, ham mê cờ bạc, uống rượu về đánh đập Chị. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc nên Chị xin ly hôn với Anh C.

Đi với Anh Võ C, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của Chị T nhưng Anh C không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của Chị T. Tại phiên tòa hôm nay, Anh C vẫn vắng mặt, chứng tỏ Anh không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của Anh Chị không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của Chị T đối với Anh C là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, Chị T và Anh C có con chung tên Võ Công S, sinh ngày 21/01/2013, con hiện đang sinh sống với Chị. Khi ly hôn, Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu Anh C cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Đối với Anh C, dù đã được thông báo về yêu cầu của Chị T đối với con chung nhưng Anh không đến Tòa án, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án. Xét thấy, để đảm bảo sự phát triển bình thường thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho Chị T nuôi dưỡng và buộc Anh C cấp dưỡng nuôi con, mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]. Về tài sản chung: Chị T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Anh C không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Chị T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Anh C không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Anh C phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Phạm Ngọc T đối với Anh Võ C về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Ngọc T được ly hôn với Anh Võ C.

- Về con chung: Chị T được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Võ Công S, sinh ngày 21/01/2013, con hiện đang sinh sống với Chị, buộc Anh C cấp dưỡng nuôi con, mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 6 năm 2019.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004128 ngày 26/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An, Chị T đã nộp đủ. Anh C phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng sung vào ngân sách Nhà nước.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:122/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về