Bản án 122/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 122/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 24 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm: 1973;

Cư trú: Tổ 8, ấp A, thị trấn A, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1987.

Cư trú: Tổ 15, ấp B, xã N, huyện A, tỉnh An Giang.

(Tại phiên tòa bà T có mặt, ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai bà Nguyễn Thị Tuyết T, trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông T được hình thành là do hai bên tự tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đứng ra tổ chức đám cưới vào năm 2012, đến nay chưa đăng ký kết hôn. Cuộc sống chung hạnh phúc đến cuối năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông bà làm ăn thu lỗ, kinh tế gia đình gặp khó khăn nên vợ chồng bất đồng quan điểm và thường xuyên cự cải. Xét thấy không thể tiếp tục chung sống nên bà và ông T sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Hiện tại bà không còn tình cảm với ông T nên xin được ly hôn.

Về quan hệ con chung: Bà với ông T có 01 con chung tên: Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày: 13/3/2013. Hiện nay cháu Trang đang sống chung với ông Tho. Khi ly hôn, bà đồng ý giao con chung cho ông T được tiếp tục nuôi, bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà và ông T không có tài sản chung cũng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian, điều kiện đi đến hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn như lời bà T trình bày. Ông và bà T đến nay chưa đăng ký kết hôn. Nay ông cũng không còn tình cảm với bà T nên đồng ý ly hôn.

Về quan hệ con chung: Ông với bà T có 01 con chung, họ tên năm sinh đúng như lời bà T trình bày. Hiện con chung đang sống chung với ông. Khi ly hôn, ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Ông và bà T không có tài sản chung cũng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng cứ bà T cung cấp cho Tòa án được công bố trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như tại phiên tòa hôm nay.

Tại phiên toà hôm nay: Bà T vẫn bảo lưu ý kiến. Ông T vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông T theo thủ tục chung.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi. Đề nghị HĐXX không công nhận bà Nguyễn Thị Tuyết T và ông Nguyễn Văn T là quan hệ vợ chồng; giao cháu Nguyễn Thị Ngọc T cho ông T được tiếp tục nuôi và công nhận sự tự nguyện của ông T về việc không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Bà T yêu cầu được ly hôn với ông T. Ông T cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang nên được Tòa án thụ lý giải quyết theo điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu của bà T xin ly hôn với ông T, HĐXX xét thấy:

Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T được xác lập do hai bên tự tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2012. Lẽ ra, hôn nhân được công nhận nhưng bà T và ông T cùng xác định từ khi chung sống đến nay chưa đăng ký kết hôn. Lời trình bày của ông bà phù hợp với Đơn xin trích lục kết hôn ngày 22/11/2017 của Ủy ban nhân dân xã N và Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện A. Căn cứ theo quy định tại điểm b, khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 của Quốc Hội và Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 không công nhận bà T và ông T là quan hệ vợ chồng.

Về quan hệ con chung: Xét yêu cầu của ông T về việc nuôi cháu Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày: 13/3/2013. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi ly thân đến nay cháu T sống chung với ông tho, tình cảm giữa ông và cháu T đã thật sự gắn bó và bà T cũng đồng ý giao con chung cho ông T được tiếp tục nuôi. Do đó, để đảm bảo sự chăm sóc cho cháu, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, sự ổn định về mặt tâm lý, sự gắn bó giữa tình cảm cha con. Hội đồng xét xử nghĩ nên giao cháu T cho ông T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng, điều này cũng phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn cha hoặc mẹ là người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, ông Tho không yêu cầu nên Hội đồng xét thấy nghĩ nên công nhận sự tự nguyện của đương sự.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết:

Ông T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T và ông T xác định không có tài sản chung và nợ chung nên Tòa án nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Tuyết T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng : Các Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 51, 53, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xử : Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết T.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận Nguyễn Thị Tuyết T và ông Nguyễn Văn T là quan hệ vợ chồng.

Về quan hệ con chung: Ông T được tiếp tục nuôi dạy con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày: 13/3/2013.

Công nhận sự tự nguyện của ông T về việc không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông T cùng các thành viên gia đình không được cản trở bà T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Tuyết T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0002841 ngày 06/3/2018.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/4/2018) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:122/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về