Bản án 122/2017/DS-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 122/2017/DS-ST NGÀY 14/09/2017 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Ngày 14 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 171/2017/TLST-DS ngày 08 tháng 6 năm 2017 về việc: “Tranh chấp nợ hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2017/QĐXX- ST ngày 03 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2017/QĐST-DS ngày 24 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim P (T), sinh năm 1966 (Có mặt);

Nơi cư trú: Khu phố M, phường PT, thành phố BT, tỉnh Bến Tre;

* Bị đơn: Bà Nguyễn Mỹ H, sinh năm 1972 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Khu phố B, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1971;

Nơi cư trú: Khu phố B, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre(Vắng mặt);

Người đại diện theo ủy quyền của bà H và ông C: Ông Nguyễn Bảo Q, sinh năm 1976. Nơi cư trú: ấp BA B, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh Bến Tre; Theo giấy ủy quyền tham gia tố tụng ngày 03/7/2017(Vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị Kim P trình bày:

Năm 2015 bà có tham gia chơi hụi do bà Nguyễn Mỹ H làm chủ hụi. Đến ngày 25/12/2016 (âm lịch) bà H tuyên bố bể hụi, bà H đồng ý trả lại tiền vốn cho bà. Vào ngày 25/01/2017, bà với bà H tính tổng cộng lại tiền vốn mà bà đã đóng hụi cho bà H là 123.408.000đồng. Bà H đã viết biên nhận nợ hụi là 123.408.000đồng và hứa trả cho bà trong năm 2017 nhưng bà không đồng ý nên bà H viết lại biên nhận nợ hụi bà vào ngày 28/02/2017 với số tiền 123.408.000đồng, cụ thể bà chơi các dây hụi như sau:

- Dây hụi thứ nhất: Bắt đầu khui ngày 01/7/2015 âm lịch, 01 tháng khui hụi 01lần; tổng cộng có 23 phần, mỗi phần hụi đóng là 1.000.000đồng, bà tham gia chơi 02 phần. Bà đã đóng được 18 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 23.400.000đồng.

- Dây hụi thứ hai: Bắt đầu khui ngày 01/9/2015 âm lịch, 01 tháng khui hụi 01 lần; tổng cộng có 23 phần, mỗi phần hụi đóng là 1.000.000đồng, bà tham gia chơi 02 phần. Mỗi phần bà đã đóng được 16 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 20.800.000đồng.

- Dây hụi thứ ba: Bắt đầu khui ngày 05/4/2016 âm lịch, 01 tháng khui hụi 01 lần; tổng cộng có 23 phần, mỗi phần hụi đóng là 2.000.000đồng, bà tham gia chơi 01 phần. Bà đã đóng được 09 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 10.580.000đồng.

- Dây hụi thứ tư: Bắt đầu khui ngày 15/6/2016 âm lịch, 01 tháng khui hụi 01 lần; tổng cộng có 23 phần, mỗi phần hụi đóng là 2.000.000đồng, bà tham gia chơi 01 phần. Bà đã đóng được 07 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 7.768.000đồng.

- Dây hụi thứ năm: Bắt đầu khui ngày 08/6/2016 âm lịch, 01 tháng khui hụi 01 lần; tổng cộng có 24 phần, mỗi phần hụi đóng là 10.000.000đồng, bà tham gia chơi 01 phần. Bà đã đóng được 07 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 44.910.000đồng.

- Dây hụi thứ sáu: Bắt đầu khui ngày 30/8/2016 âm lịch, 01 tháng khui hụi 02 lần; tổng cộng có 24 phần, mỗi phần hụi đóng là 2.000.000đồng, bà tham gia chơi 02 phần. Bà đã đóng được 08 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 9.720.000đồng.

- Dây hụi thứ bảy: Bắt đầu khui ngày 15/11/2016 âm lịch, 01 tháng khui hụi 02 lần; tổng cộng có 24 phần, mỗi phần hụi đóng là 3.000.000đồng, bà tham gia chơi 02 phần. Bà đã đóng được 03 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 6.230.000đồng.

Nay bà khởi kiện yêu cầu bà H và chồng bà H là ông C có trách nhiệm liên đới trả cho bà số tiền nợ hụi là 123.408.000đồng. Bà không yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/5/2017, bị đơn bà Nguyễn Mỹ H trình bày:

Bà H thừa nhận trước đây bà có làm chủ hụi, bà P có tham gia chơi hụi nhưng sau đó bị bể hụi. Bà có viết biên nhận nợ tiền hụi của bà P là 123.408.000đồng, số tiền bà ghi trong biên nhận nợ hụi là tiền vốn gốc mà các hụi viên đã đóng hụi, không có tiền lời hay tiền lãi và bà đồng ý trả tiền nợ hụi cho bà P.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H, và ông C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bà H và ông C vẫn không đến nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý đến khi xét xử. Đối với những người tham gia tố tụng, bà H và ông C không chấp hành tốt quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án thấy rằng:

Tòa án xét xử vắng mặt bà H, ông C, ông Q là đúng quy định pháp luật. Bà P có tham gia chơi 07 dây hụi do bà H làm chủ. Bà H thừa nhận các khoản nợ theo giấy biên nhận nợ mà bà H đã viết cho các hụi viên là tiền vốn gốc và đồng ý trả. Do bà H và ông C có đăng ký kết hôn với nhau và khoản nợ này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên ông C có trách nhiệm liên đới với bà H trả số tiền nợ hụi cho bà P là 123.408.000đồng là có căn cứ. Ghi nhận bà P không yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Xét đây là quan hệ tranh chấp nợ hụi giữa bà Trần Thị Kim P với bà Nguyễn Mỹ H và ông Nguyễn Ngọc C; do bà H và ông C hiện nay đang cư trú tại phường PK, thành phố BT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố BT theo Điều 26 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên hòa giải cho bà H và ông C nhiều lần nhưng bà H và ông C vẫn vắng mặt. Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng bà H và ông C vẫn vắng mặt. Bà H và ông C có ủy quyền cho ông Nguyễn Bảo Q tham gia tố tụng tại Tòa án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Q nhưng ông Q vẫn không có mặt tại phiên tòa. Do đó căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố BT tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà H, ông C, ông Q là đúng quy định pháp luật.

[3] Xét thấy, việc bà P có chơi 07 dây hụi do bà H làm chủ hụi là có thật. Bà H thừa nhận bị bể hụi, bà H có viết biên nhận nợ tiền hụi gốc của bà P tổng cộng số tiền là 123.408.000đồng. Số tiền bà H ghi trong biên nhận nợ hụi là tiền vốn gốc không có tiền lời hay tiền lãi. Bà H đồng ý trả tiền nợ hụi cho bà P và không đồng ý về việc ông C liên đới trách nhiệm với bà trả nợ do ông C không liên quan gì đến việc chơi hụi của bà, mọi việc góp hụi một mình bà làm. Tuy nhiên xét thấy bà H và ông C là vợ chồng có đăng ký kết hôn với nhau và khoản nợ này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đồng thời căn cứ biên bản làm việc ngày 23/3/2017 thì ông C có ý kiến: ông biết việc bà H làm chủ hụi và bị bể hụi, ông đồng ý liên đới trách nhiệm với bà H trả tiền nợ hụi. Vì vậy, buộc ông C và bà H phải có trách nhiệm liên đới trả số tiền nợ hụi cho bà P là phù hợp. Xét yêu cầu của bà P về việc buộc ông C và bà H có trách nhiệm liên đới trả cho bà P tiền nợ hụi 123.408.000đồng là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bà Trần Thị Kim P không phải chịu án phí. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là (123.408.000đồng x 5%)= 6.170.400 (Sáu triệu một trăm bảy mươi ngàn bốn trăm)đồng, bị đơn bà Nguyễn Mỹ H và ông Nguyễn Ngọc C có trách nhiệm liên đới chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 357, Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26, 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Áp dụng Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về họ, hụi, biêu, phường;

- Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Kim P (Thủy), cụ thể tuyên:

Buộc bà Nguyễn Mỹ H và ông Nguyễn Ngọc C có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị Kim P (T) số tiền nợ hụi là 123.408.000 (Một trăm hai mươi ba ngàn bốn trăm lẽ tám ngàn) đồng. Ghi nhận bà P không yêu cầu tính lãi đối với số tiền nêu trên.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án, số tiền nêu trên nếu chưa được thi hành thì hàng tháng còn phải trả lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 6.170.400 (Sáu triệu một trăm bảy mươi ngàn bốn trăm) đồng, bị đơn bà Nguyễn Mỹ H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc C có trách nhiệm liên đới chịu.

Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố BT, tỉnh Bến Tre hoàn lại cho bà Trần Thị Kim P (T) số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 3.085.200 (Ba triệu không trăm tám mươi lăm ngàn hai trăm) đồng theo biên lai số 0010910 ngày 07 tháng 6 năm 2017.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2017/DS-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:122/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về