TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 22-02-2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 337/2020/TLST- HNGĐ ngày 10-11-2019, về việc Ly hôn và tranh chấp nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22-01-2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08-02-2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Trọng C; nơi cư trú: Thôn 1, HD, xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
- Bị đơn: Chị Ngô Thị Q; nơi cư trú: Thôn CL, xã ĐM, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20-6-2020, bản tự khai và tại phiên hòa giải, nguyên đơn là anh Nguyễn Trọng C, trình bày:
Anh và chị Ngô Thị Q kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ ngày 30-01-2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung trong quan hệ tình cảm tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân đến nay được 03 năm, mỗi người sống một nơi, không quan tâm đến nhau, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Ngô Thị Q.
Về con chung: Anh và chị Q có 01 con chung là Nguyễn Q A, sinh ngày 06-9-2013, hiện đang do anh trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con anh và chị Q tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Anh và chị Q tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Chị Ngô Thị Q vắng mặt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
Tại các biên bản lấy lời khai, biên bản xác minh xác định được: Về điều kiện kết hôn, thời gian và hoàn cảnh kết hôn cũng như mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Nguyễn Trọng C và chị Ngô Thị Q như nội dung anh C trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung trong quan hệ tình cảm tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm không tôn trọng nhau, vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người sống một nơi, không quan tâm đến nhau. Về con chung: Chị Q và anh C có 01 con chung là Nguyễn Q A, sinh ngày 06-9-2013, hiện đang do anh C trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Không xác định được.
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xác định quan hệ tranh chấp về Ly hôn, tranh chấp nuôi con là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, về thẩm quyền đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 83 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử; xử cho anh Nguyễn Trọng C được ly hôn với chị Ngô Thị Q; đề nghị giao con chung là Nguyễn Q A, sinh ngày 06-9-2013, cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con do không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết; về tài sản chung và nợ chung: Do hai bên không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết. Về án phí: Anh C phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng dân sự:
[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn giữa nguyên đơn là anh Nguyễn Trọng C và bị đơn là chị Ngô Thị Q có nơi cư trú tại huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đều có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, có bản tự khai và tham gia đầy đủ các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Như vậy, nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Bị đơn là chị Ngô Thị Q đã nhận được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Q vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Như vậy, chị Q đã không chấp hành đẩy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được coi là từ bỏ quyền trình bày, đưa ra chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là anh Nguyễn Trọng C và bị đơn là chị Ngô Thị Q.
- Về nội dung vụ án:
[4] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Trọng C và chị Ngô Thị Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ ngày 30-01-2013. Như vậy, hôn nhân này là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm và không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân được 03 năm, không quan tâm đến nhau, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh C xin ly hôn nhưng chị Q không có quan điểm và không C cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng chị Q không đến Tòa án để giải quyết và không đưa ra được biện pháp gì để khắc phục những mâu thuẫn và hàn gắn tình cảm vợ chồng, tại các phiên tòa chị đều vắng mặt. Điều đó chứng tỏ chị không thực sự muốn níu kéo tình cảm vợ chồng. Hơn nữa, qua xác minh tại địa phương và gia đình đều thể hiện vợ chồng anh C, chị Q đã xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân nhiều năm nay nên có đủ căn cứ xác định, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh C và chị Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Trọng C xin ly hôn với chị Ngô Thị Q.
[5] Về con chung: Anh C và chị Q có 01 con chung là Nguyễn Q A, sinh ngày 06-9-2013, hiện con chung đang do anh C trực tiếp nuôi dưỡng, anh C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, có việc làm, có thu nhập đảm bảo được việc nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung. Mặt khác, con chung có nguyện vọng được ở với bố. Do đó, để đảm bảo sự ổn định cũng như điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung được tốt Hội đồng xét xử xử căn cứ vào các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung Nguyễn Q A cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh C và chị Q không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Anh C và chị Q không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Anh C phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Trọng C được ly hôn với chị Ngô Thị Q .
2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Q A, sinh ngày 06-9- 2013, cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Anh C phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Hoa đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0017400 ngày 10-11-2020, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Anh C đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Anh C và chị Q vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./
Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 12/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về