Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 19/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 14/2021/TLST - HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 05/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Lệ M, sinh năm 1992; địa chỉ nơi cư trú: thôn P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; chỗ ở hiện nay: thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Bị đơn: Anh Hồ Văn C, sinh năm 1991; địa chỉ nơi cư trú: thôn P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26/01/2021, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Lệ M trình bày: Chị và anh Hồ Văn C thông qua bạn bè nên quen biết nhau khoảng 06 tháng. Sau đó hai bên tự nguyện đến Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, tỉnh Quảng Bình đăng ký kết hôn vào ngày 06/9/2011. Sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng về sống chung cùng gia đình bố mẹ anh C được khoảng 03 năm thì xẩy ra mâu thuẩn. Nguyên nhân, do chị M phát hiện anh C sử dụng và lệ thuộc Ma túy nên đã khuyên bảo, động viên anh C bỏ ma túy để lo làm ăn và chăm lo cho gia đình vợ con nhưng anh C không nghe.

Trong lúc có bầu cháu thứ hai, khuyên nhủ anh C không chịu nghe, sợ ảnh hưởng đến sức khỏe nên chị đã đưa con về nhà bố mẹ chị ở thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình sinh sống từ đầu năm 2014. Anh C ở cùng bố mẹ anh đã có hành vi vi phạm pháp luật bị Tòa án xét xử nhiều lần. Sau khi sinh cháu thứ hai một thời gian chị M gửi các con cho mẹ và chị đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Từ đó đến nay hai bên không quan tâm, lo lắng gì cho nhau, người nào biết việc của người đó. Hiện nay, chị thấy mâu thuẩn vợ chồng đã căng thẳng, sống ly thân đã lâu, anh C không quan tâm, lo lắng gì đến gia đình vợ con mà vẫn sử dụng ma túy nên không thể trở lại sống chung cùng nhau được. Vì vậy, chị kiên quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị sớm được ly hôn anh Hồ Văn C để ổn định cuộc sống bản thân và nuôi dạy con chung.

Tại biên bản lấy lời khai, anh Hồ Văn C trình bày: anh nhất trí về quá trình tìm hiểu, đăng ký kết hôn và cuộc sống chung vợ chồng như chị M trình bày trước Tòa. Còn về nguyên nhân mâu thuẩn là do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên chị M đưa con về nhà bố mẹ chị sinh sống từ đầu năm 2014. Sau đó, chị M gửi con cho mẹ chị nuôi dưỡng và chị M đi lao động ở nước ngoài. Từ đó, vợ chồng sống ly thân, không hỏi han, quan tâm lo lắng gì cho nhau, người nào biết công việc của người đó. Sau khi trở về thì chị làm đơn xin ly hôn anh. Hiện nay, anh thấy vợ chồng sống ly thân đã lâu, không quan tâm lo lắng gì cho nhau nên tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy, chị M không còn thương yêu anh nữa và kiên quyết xin ly hôn thì anh cũng nhất trí, vì anh có muốn níu kéo thì cuộc sống vợ chồng cũng không có hạnh phúc. Hiện nay, anh thường xuyên bị đau ốm phải nằm viện bất thường nên không thể có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án để tham gia giải quyết vụ án được. Vì vậy, anh đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Về quan hệ con chung: chị Trần Thị Lệ M và anh Hồ Văn C đều khai nhận vợ chồng có hai con chung, cháu Hồ Quang C, sinh ngày 20/12/2012 và cháu Hồ Thu T, sinh ngày 18/10/2014. Hiện nay, hai cháu sinh sống cùng với chị M kể từ năm 2014 cho đến nay. Lúc đầu anh C thỉnh thoảng có ghé thăm các con, nhưng sau đó không thăm và cũng không đưa tiền cho chị M lo lắng cho các con. Chị M có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh C đóng góp tiền nuôi con chung. Vì, sau khi sống ly thân chị có thời gian đi xuất khẩu lao động nước ngoài nên tiết kiệm được một số tiền cũng đủ để lo lắng cho các con cuộc sống bình thường. Với lại, anh C là người sử dụng ma túy không có công việc, thu nhập, thường xuyên đau ốm, sống phụ thuộc gia đình nên giao con cho anh C sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của con; còn anh C cũng đồng ý giao hai con chung cho chị M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì các con đã có cuộc sống cùng chị M ổn định nên anh không muốn xáo trộn cuộc sống của các con. Hiện nay, chị M không yêu cầu anh đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, anh hoàn toàn nhất trí, vì anh thường xuyên đau ốm phải nằm viện, sống phụ thuộc vào gia đình. Sau này sức khỏe ổn định, có công việc và thu nhập thì anh sẽ góp tiền nuôi con chung cùng chị M nếu chị M có yêu cầu.

Về quan hệ tài sản và công nợ chung: chị Trần Thị Lệ M và anh Hồ Văn C khai nhận vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Bố Trạch phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình; còn bị đơn mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do. Ngày 02/4/2021 tại biên bản lấy lời khai bị đơn đã trình bày ý kiến của mình đối với các yêu cầu của nguyên đơn và có ý kiến đề nghị giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt bị đơn anh Hồ Văn C.

Về nội dung vụ án: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà thấy rằng, hai bên đã sống ly, không quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên chị M kiên quyết xin ly hôn, anh C cũng nhất trí. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để xử: Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lệ M xin ly hôn anh Hồ Văn C; về quan hệ con chung: giao hai con chung cháu Hồ Quang C, sinh ngày 20/12/2012 và cháu Hồ Thu T, sinh ngày 18/10/2014 cho chị M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị M không yêu cầu anh C đóng góp tiền nuôi con chung nên cần chấp nhận yêu cầu của chị M không buộc anh C phải đóng góp tiền nuôi con chung cùng chị M; về quan hệ tài sản và nợ chung: Hai bên thỏa thuận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; về án phí buộc đương sự phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện của chị Trần Thị Lệ M và các tài liệu kèm theo đơn khởi kiện. Tòa án xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình chuẩn bị xét xử, bị đơn anh Hồ Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai ngày 02/4/2021, anh C đã trình bày ý kiến, yêu cầu của mình đối với yêu cầu của chị M và có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Hồ Văn C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị Lệ M và anh Hồ Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S (nay là thị trấn P), huyện B, tỉnh Quảng Bình vào ngày 06/9/2011 nên quan hệ hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp. Sau khi kết hôn, lẽ ra vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, thông cảm và tạo điều kiện về mọi mặt trong cuộc sống để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, nhưng do anh C sử dụng và phụ thuộc Ma túy mà chị M và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo, động viên anh C bỏ ma túy để lo làm ăn và chăm lo cho gia đình vợ con nhưng anh C không nghe, mà còn có hành vi vi phạm pháp luật đã bị Tòa án xét xử nhiều lần. Chịu không nổi cuộc sống chung cùng anh C nên khi có bầu con thứ hai chị M sợ ảnh hưởng đến cuộc sống các con nên đầu năm 2014 chị M tự ý bồng con về nhà bố mẹ chị sinh sống. Sau đó chị M gửi con cho mẹ để đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài để cải thiện kinh tế gia đình nhưng anh C ở nhà không quan tâm, lo lắng gì cho con, người nào biết việc của người đó nên hai bên sống ly thân. Hiện nay, chị M khẳng định mâu thuẩn vợ chồng đã căng thẳng, sống ly thân đã lâu, không còn tình cảm, không thể trở lại sống chung cùng nhau nên chị M kiên quyết ly hôn anh C; còn anh C thừa nhận hai bên sống ly thân từ đầu năm 2014 cho đến nay, ai lo và biết công việc của người đó, không quan tâm lo lắng gì cho nhau nên tình cảm không còn. Vì vậy, chị M kiên quyết ly hôn anh cũng nhất trí. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh C nhiều lần nhưng anh C đều vắng mặt không có lý do. Tòa án phải tiến hành xác minh, lấy lời khai của anh C, thể hiện anh C không hề quan tâm, lo lắng gì đến gia đình mà để mặc cho chị M muốn làm gì thì làm, đã cố tình từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình đối với gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M là phù hợp với điều kiện thực tế của hai bên, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và quy định tại các Điều 51 và Điều 56 luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Xét yêu cầu, nguyện vọng của chị M, anh C và con chung thấy. Các con sống chung cùng chị M từ năm 2014 cho đến nay đã ổn định cuộc sống, học tập cùng chị M. Chị M có thời gian đi lao động ở nước ngoài nên có một số tiền cũng đủ để lo lắng cho các con cuộc sống bình thường. Ngoài ra, trong thời gian sống ly thân anh C cũng không quan tâm, lo lắng và đưa tiền cho chị M để lo cho các con, nhưng chị M cũng lo cho cuộc sống của các con ổn định; còn anh C là người sử dụng Ma túy, thường xuyên ốm đau phải nằm viện, cuộc sống phụ thuộc vào gia đình nên khó có điều kiện để chăm sóc cho các con và các con cũng có nguyện vọng được sống chung cùng chị M nên chị M có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng các con và không yêu cầu anh C đóng góp tiền nuôi con chung cùng chị, anh C cũng nhất trí. Vì vậy, Hội đồng xét xử nghĩ cần chấp nhận yêu cầu của chị M để giao hai con cho chị M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không buộc anh C phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M là phù hợp với yêu cầu, điều kiện thực tế của các bên và phù hợp ý kiến của đại diện Viện kiểm sát cũng như quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ tài sản và nợ chung: chị Trần Thị Lệ M và anh Hồ Văn C khai nhận vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: chị Trần Thị Lệ M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẻ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Hồ Văn C.

2. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lệ M. Xử cho chị Trần Thị Lệ M ly hôn anh Hồ Văn C. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

3. Về quan hệ con chung: xử giao hai con chung cháu Hồ Quang C, sinh ngày 20/12/2012 và cháu Hồ Thu T, sinh ngày 18/10/2014 cho chị Trần Thị Lệ M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Hồ Văn C không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên chị Trần Thị Lệ M và anh Hồ Văn C có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

4. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm: xử buộc chị Trần Thị Lệ M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn. Số tiền án phí chị M phải chịu được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch, theo biên lai thu số 0000568, ngày 27/01/2021. Chị M đã nộp đủ tiền án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt. Báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Báo cho bị đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc Toà án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 19/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về