Bản án 12/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tuấn E, sinh năm 1993 tại Bình Dương. Nơi cư trú: Tổ 4, khu phố 3, thị trấn PV, huyện P, tỉnh BD; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị Mỹ D (chết); tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/02/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Ông Lê Anh T, sinh năm 1992.

Nơi cư trú: Số nhà 106, tổ 2, ấp S, xã PH, huyện P, tỉnh BD. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/3/2019, Lê Anh T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Winner biển số 61F1 – 282.39 chở Nguyễn Tuấn E đến quán Karaoke Hùng Cường thuộc khu phố 9, thị trấn PV, huyện PG, tỉnh BD cùng 03 người bạn (không rõ nhân thân, lai lịch) để hát karaoke. Trong lúc hát thì Nguyễn Tuấn E hỏi mượn chiếc xe mô tô của T về nhà chị gái lấy quần áo, T đồng ý. Sau khi, T cho Nguyễn Tuấn E mượn xe, nghĩ lại việc đang thiếu nợ số tiền 85.000.000 đồng của nhóm thanh niên người Hải Phòng nên Nguyễn Tuấn E nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của T đem cấn trừ nợ. Liền lúc này, Nguyễn Tuấn E điều khiển xe mô tô của T đến Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh và giao chiếc xe mô tô biển số 61F1 – 282.39 để cấn trừ nợ cho nhóm thanh niên người Hải Phòng (không rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ). Sau đó, Nguyễn Tuấn E bỏ trốn khỏi địa phương đến ngày 02/02/2020, Nguyễn Tuấn E biết mình bị khởi tố nên đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo để đầu thú và khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản kết luận định giá tài sản ngày 21/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Giáo kết luận: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 61F1 - 282.39, SK: 2600GY019050, SM: KC26E1031390 có giá trị là 30.000.000 (Ba mươi triệu đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ:

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012073 mang tên Lê Anh T, sinh năm 1992, địa chỉ: Ấp S, xã PH, huyện P, tỉnh BD.

Về mặt dân sự: Bị hại Lê Anh T yêu cầu Nguyễn Tuấn E bồi thường số tiền 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng).

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 61F1 - 282.39, khi Nguyễn Tuấn E giao xe để cấn trừ nợ cho nhóm thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ) tại Thành phố Hồ Chí Minh nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo không thu giữ được. Ngày 15/7/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo có Công văn số 227 ngày 15/7/2019 thông báo truy tìm phương tiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 61F1 - 282.39, khi thu giữ làm rõ sẽ xử lý sau.

Cáo trạng số 14/CT-VKSPG ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn E về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn E từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Tuấn E cho rằng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại Lê Anh T trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 61F1 - 282.39 là của bị hại, bị hại cho Nguyễn Tuấn E mượn nhưng Nguyễn Tuấn E đã mang đi cấn trừ nợ, không thu hồi được. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Nguyễn Tuấn E phải bồi thường cho bị hại số tiền 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng). Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn E đã khai nhận: Ngày 10/3/2019, bị cáo Nguyễn Tuấn E hỏi mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Winner biển số 61F1 – 282.39 trị giá 30.000.000 đồng của bị hại Lê Anh T tại quán Karaoke Hùng Cường thuộc khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương để đi lấy đồ, T đồng ý cho bị cáo Nguyễn Tuấn E mượn xe. Sau khi mượn được xe của T, do đang thiếu nợ tiền của nhóm thanh niên người Hải Phòng nên Nguyễn Tuấn E đã nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của T để cấn trừ nợ, Nguyễn Tuấn E đã điều khiển xe mô tô đến Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh giao xe cho nhóm thanh niên người Hải Phòng để cấn trừ nợ. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người thực hành và lỗi cố ý trực tiếp. Về nhận thức, bị cáo biết việc lợi dụng việc mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Winner biển số 61F1 – 28239 của bị hại Lê Anh T, rồi đem cấn trừ nợ là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của bị hại Lê Anh T có giá trị 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Như vậy, Cáo trạng số 14/CT-VKSPG ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn E về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Tội phạm do bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đầu thú là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước mà an tâm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Xét mức hình phạt như Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo Nguyễn Tuấn E là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Anh T yêu cầu bị cáo Nguyễn Tuấn E phải bồi thường cho bị hại số tiền 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng), bị cáo Nguyễn Tuấn E đồng ý bồi thường cho bị hại Lê Anh T số tiền 36.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về việc xử lý vật chứng: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012073 mang tên Lê Anh T, sinh năm 1992, địa chỉ: Ấp S, xã PH, huyện P, tỉnh BD là giấy tờ cá nhân của bị hại nên cần trả lại cho Lê Anh T.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn E phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn E 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/02/2020.

3.Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 589 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn E phải bồi thường cho bị hại Lê Anh T số tiền 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự với mức lãi suất tương ứng số tiền và thời gian chưa thi hành án.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại: 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012073 mang tên Lê Anh T, sinh năm 1992, địa chỉ: Ấp Suối Con, xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương cho Lê Anh T.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc: Bị cáo Nguyễn Tuấn E phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về