Bản án 12/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M - TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN, TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2020/TLST-HS, ngày 28/10/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày13/11/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vàng A M, tên gọi khác: Không, giới tính:Nữ, Sinh năm 1985 tại Xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Khu phố 2 Thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con ông: Vàng Ló C, đã chết và con bà Chu Nhù X, sinh năm 1967, trú tại bản T, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu; Anh chị em ruột: Bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con cả trong gia đình; Bị cáo có chồng: Mào Văn V, đã chết; Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2006.

Tiền sự: Không; Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án. Ngày 23/11/2016 bị cáo Vàng A M bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 22/4/2019, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Đến ngày 20/6/2020 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện M khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS; hiện nay bị cáo chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/6/2020 đến ngày 20/6/2020, bị tạm giam từ ngày 20/6/2020 đến nay, tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện M. Có mặt.

2. Họ và tên: Lò Thanh T, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Sinh năm 1991, tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT: khu phố 9, xã thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Bùi Duy T, Nơi ĐKHKTT: Huyện Ý , tỉnh Nam Định; Họ và tên cha dượng: Nguyễn Văn P, đã chết; Con bà: Lò Thị H, sinh năm 1965; Nơi ĐKHKT: khu Phố 9, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu; Anh, chị, em ruột: Bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Vợ bị cáo: Lò Thị B, sinh năm 1997; Nơi ĐKHKTT: Khu Phố 9, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu; Bị cáo có 01 con sinh năm 2016;

Tiền sự, tiền án: không; Về nhân thân ngày 23/6/2011 bị cáo Lò Thanh T bị Tòa án nhân dân huyện Mường C, tỉnh Điện Biên áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 194, BLHS, xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Đến ngày 20/6/2020 bị Công an huyện M khỏi tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm và đã chấp hành xong các quyết định của bản án, theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/6/2020 đến ngày 20/6/2020, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 20/6/2020 đến nay tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Người làm chứng: Vàng Văn Đ, sinh năm 1998, trú tại Bản Nà H, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

Đao Văn T, tên gọi khác Đao Văn A, sinh năm 1999, trú tại Khu phố 11 Thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 10/6/2020, Vàng A M - sinh năm 1985, trú tại khu phố 2, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu đang ở nhà Lò Thị H thuộc khu phố 1, thị trấn M, huyện M (Lò Thị H đi vắng không có mặt ở nhà) thì có Lò Thanh T, sinh năm 1991, trú tại khu phố 9, thị trấn M, huyện M đến nhà của H chơi. Cả hai đều là người nghiện ma túy, quen biết nhau từ trước, nên M đã đưa cho T số tiền 2.700.000 đồng để nhờ T đi mua ma túy và hứa sẽ cho T một ít để sử dụng và được T đồng ý. Mục đích M nhờ T đi mua ma túy về để sử dụng và chia nhỏ để bán kiếm lời, nhưng khi nhờ T, M chỉ nói cho T biết mục đích là để sử dụng. Sau đó T đã điều khiển chiếc xe mô tô BKS 25M1-073.17 đi đến bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm N, tỉnh Lai Châu rồi dùng số tiền M đưa, T mua của một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt 04 viên Methmphetamine với giá 200.000 đồng và 01 gói heroine với giá 2.500.000 đồng. Trong thời gian Vàng A M ở nhà Lò Thị H để chờ T đi mua ma túy, thì có Lý Văn C, sinh năm 1976, trú tại khu phố 11, thị trấn M đến hỏi mua heroine để sử dụng, nhưng M nói không có, nên C đi ra ngoài, một lúc sau quay lại lấy 01 gói heroine từ trong người ra rồi cùng với M sử dụng. M và C sử dụng heroine đến khoảng 20 giờ ngày 10/6/2020, thì T đi Pa M, xã Hua B quay về và đưa cho M toàn bộ số ma túy vừa mua được. Nhận được ma túy, M đã cho T 01 viên Methmphetamine (trong số 04 viên T đã mua hộ) như thỏa thuận từ trước. Sau đó M đã đem chia số heroine ra thành 38 gói nhỏ (trong đó 35 gói được gói bằng mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ là các nét chấm màu đen, 03 gói được gói bằng mảnh giấy bạc của bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long) rồi cho toàn bộ vào 01 lọ nhựa màu cam và cất giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc, số mảnh vụn heroine trong quá trình chia nhỏ M đã gom lại vào một mảnh giấy màu trắng rồi để trên chiếc bàn M đang ngồi sử dụng ma túy. Còn 03 viên Methmphetamine mới mua được M đã cùng với C và T tiếp tục sử dụng. M, T và C sử dụng ma túy đến khoảng gần 21 giờ cùng ngày thì có Vàng Văn Đ, sinh năm 1998 trú tại bản Nà H, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu đến đưa cho M 50.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng và 01 tờ tiền có mệnh giá 10.000 đồng), để hỏi mua ma túy về sử dụng và M đã đồng ý, nhận tiền của Đ rồi cất vào trong túi quần đang mặc trên người, nhưng lúc đó M chưa lấy ma túy đưa cho Đ vì đang mải sử dụng ma túy. Quá trình chờ M lấy ma túy bán cho mình, Đ đã tự lấy một ít heroine từ số vụn trong mảnh giấy M đặt trên mặt bàn trước đó rồi ngồi sử dụng. Khi tất cả đang sử dụng ma túy như đã nêu trên thì có Đao Văn T (tên gọi khác Đao Văn A), sinh năm 1999, trú tại khu phố 11, Thị trấn M, huyện M đến hỏi mua heroine của M để sử dụng. M đồng ý rồi lấy 01 gói heroine được gói bằng mảnh giấy trắng có dòng kẻ chấm màu đen, từ trong lọ nhựa ra bán cho T với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy của M, T đi về đến khu vực cây xăng thuộc khu phố 1, thị trấn M, huyện M thì bị tổ công tác Công an thị trấn M phát hiện, bắt quả tang và thu giữ gói ma túy T vừa mua. Căn cứ lời khai của T, tổ công tác Công an thị trấn M đã tiến hành xác minh, kiểm tra nhà ở của H tại khu phố 1, thị trấn M, huyện M, thì phát hiện Vàng A M, Lò Thanh T, Lý Văn C và Vàng Văn Đ đang sử dụng trái phép chất ma túy. Trước sự việc trên tổ công tác Công an thị trấn M đã lập biên bản ghi nhận sự việc, thu giữ toàn bộ tang vật của M bao gồm: 37 gói heroine M đã cất giấu trong chiếc lọ nhựa màu cam (trong đó 34 gói được gói bằng mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ bằng các nét chấm màu đen, 03 gói được gói bằng mảnh giấy bạc của bao thuốc lá Thăng Long); 01 gói heroine được gói bằng mảnh giấy màu trắng M để trên mặt bàn; 02 con dao lam, 03 mảnh giấy bạc, 01chiếc bật lửa màu xanh, 01 sợi dây chuyền được làm bằng kim loại màu vàng, 01 chai nhựa màu trắng không có nắp, 01 ống nhựa hình tròn dùng để hít ma túy và số tiền 480.000 đồng (M khai nhận đây là số tiền của M trong đó có 150.000 đồng là tiền mà M bán heroine cho Vàng Văn Đ và Đao Văn T mà có). Ngoài ra còn thu giữ của Lò Thanh T số tiền 152.000 đồng, 01 viên Methamphetamine (chính là viên M đã cho T để sử dụng). Ngoài hành vi như đã nêu trên: Khoảng 19 giờ ngày 07/6/2020, cũng tại nhà của Lò Thị H thuộc khu phố 1, thị trấn Mường Tè (thời gian này H đang đi vắng), Vàng A M còn bán cho một người đàn ông tên L trú tại xã Vàng S, huyện M 01 gói heroine với giá 50.000 đồng.

Kết luận giám định tư pháp số 27 ngày 11/6/2020 của người giám định tư pháp - Công an huyện M kết luận gói vật chứng thu giữ của Đao Văn T có khối lượng 0,01 gam; Kết luận giám định số 302/ Đ-KTHS ngày 20/6/2020 của Phòng k thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận 01 mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Đao Văn T gửi đến giám định là ma túy, loại: Heroine;

Kết luận giám định tư pháp số 28 ngày 11/6/2020 của người giám định tư pháp - Công an huyện Mường Tè kết luận Viên nén màu hồng, hình tròn của Lò Thanh T có khối lượng: 0,09 gam; Kết luận giám định số 303/ Đ-KTHS ngày 21/6/2020 của Phòng k thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lò Thanh T gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

Kết luận giám định tư pháp số 29 ngày 11/6/2020 của người giám định tư pháp - Công an huyện Mường Tè kết luận 38 gói vật chứng thu giữ của Vàng A M có tổng khối lượng 3,02 gam. Kết luận giám định số 304/ Đ-KTHS ngày 26/6/2020 của Phòng k thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận 38 mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của M gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 71/CT-VKS-MT ngày 26/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố các bị cáo: Vàng A M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lò Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, trong phần tranh luận giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Vàng A M, Lò Thanh T và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố các bị cáo: Vàng A M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 BLHS. Xử phạt bị cáo Vàng A M từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; Lò Thanh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị HĐXX áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 BLHS. Xử phạt bị cáo Lò Thanh T từ 01năm 08 tháng đến 02 năm 02 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.Về xử lý vật chứng vụ án đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Vật chứng vụ án 3,12 gam chất ma túy (Trong đó 3,02 gam Heroine và 0,09 gam Methamphetamine ). Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Mường Tè đã gửi đi giám định nên không đặt vấn đề giải quyết.

Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy 01 lọ nhựa màu cam, 02 con dao lam, 03 mảnh giấy bạc, 38 mảnh giấy màu trắng và 01 mảnh nilon, 01 mảnh giấy còn lại sau khi xác định khối lượng, 01 chiếc bật lửa màu xanh, 01 chai nhựa màu trắng không có nắp đậy, 01 ống nhựa hình tròn dùng để hít ma túy; Tịch thu sung công qu nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Vàng A M đây tiền do bị cáo bán Heroine mà có. Trả lại cho bị cáo Vàng A M số tiền 280.000 đồng đây là số tiền hợp pháp của bị cáo.

Đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo, theo điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

*Đối với Vàng Văn Đ là người đã mua heroine của M với số tiền 50.000 đồng nhằm mục đích để sử dụng. Tuy nhiên trên thực tế Vàng Văn Đ chưa nhận được ma túy. Quá trình điều tra cũng không xác định được khối lượng ma túy Đ đã mua. Do không đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội đối với Đ, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện M ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

*Đối với Đao Văn T là người đã có hành vi mua và tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên khối lượng heroine củaT tàng trữ chỉ là 0,01 gam. T chưa có tiền án, tiền sự. Do đó Cơ quan Công an huyện M đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T là đúng quy định của pháp luật.

*Đối với Lò Thị H là chủ sở hữu căn nhà mà Vàng A M và các đối tượng nêu trên đã mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra xác định: H không biết về việc M và các đối tượng nêu trên mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà mình. Do đó không xem xét trách nhiệm hình sự đối với H.

*Đối với việc Lý Văn C khai đã mua ma túy của M vào ngày 10/6/2020, quá trình điều tra C khai nhận gói ma túy mà C cho M sử dụng như đã nêu trên là do C mua của M. Tuy nhiên M không thừa nhận đã bán ma túy cho C, ngoài lời khai của C không còn chứng cứ nào khác để chứng minh. Do vậy không đủ căn cứ để xem xét hành vi này của M.

Đối với việc Vàng A M cho Vàng Văn Đ, Lò Thanh T và Lý Văn C sử dụng chất ma túy. Quá trình điều tra xác định M, Đ, T và C đều là những người nghiện chất ma túy. Bên cạnh đó không có ai chỉ huy, phân công cho M làm việc tổ chức sử dụng chất ma túy. Do vậy không xem xét trách nhiệm của M về hành vi này.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ. Quá trình điều tra Lò Thanh T khai mua được của một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt ở khu vực bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm N, tỉnh Lai Châu. Kết quả điều tra không xác định được người đàn ông này là ai, ngoài lời khai duy nhất của T không có tài liệu khác để chứng minh, nên Cơ quan CSĐT không đủ cơ sở điều tra làm rõ.

Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát ND huyện M, các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của các bị cáo xin sửa chữa lỗi lầm của mình, các bị cáo đều xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan Điều tra. Đủ cơ sở khẳng định Trong các ngày 07/6/2020 và ngày 10/6/2020 Vàng A M đã thực hiện 03 lần hành vi bán trái phép chất ma túy (Heroine) lần thứ nhất khoảng 19 giờ ngày 07/6/2020 tại nhà của Lò Thị H thuộc khu phố 1, thị trấn Mường Tè Mé đã bán cho một người đàn ông tên là L trú tại xã Vàng S, huyện M 01 gói heroine với giá 50.000 đồng. Lần thứ hai vào khoảng 21 giờ ngày 10/6/2020 cũng tại nhà Lò Thị H thuộc khu phố 1, thị trấn M, M đã bán Heroine cho Vàng Văn Đ với giá 50.000 đồng. Lần thứ ba cũng trong thời gian và địa điểm trên, M đã bán cho Đao văn T (tức Đao Văn A) 01 gói heroine có khối lượng là 0,01 gam với giá 100.000 đồng. Ngoài ra M còn tàng trữ trái phép chất ma túy 38 gói heroine có tổng khối lượng 3,02 gam nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Đối với hành vi Lò Thanh T biết rằng Vàng A M chỉ nhờ mình đi mua ma túy về để Vàng A M sử dụng, nên T đã đồng ý mang số tiền 2.700.000 đồng của M đưa, đến bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm N, tỉnh Lai Châu mua hộ cho M được 3,03 gam Heroine và 0,09 gam Methamphetamine, do vậy Lò Thanh T phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 3,12 gam (Trong đó 3,02 gam Heroine và 0,09 gam Methamphetamine). Như vậy hành vi của các bị cáo:

+ Vàng A M đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS. Tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: ....

b) Phạm tội 02 lần trở lên; ......” + Lò Thanh T đã phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS. Điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

......

i) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo Vàng A M, Lò Thanh T theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng hành vi các bị cáo.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, các bị cáo là người nghiện chất ma túy, M đã mua bán trái phép chất ma túy tổng khối lượng 3,12 gam Heroine và bán ma túy 03 lần thu lợi bất chính số tiền 200.000 đồng; T tàng trữ trái phép chất ma túy 3,12 gam (3,03 gam Heroine và 0,09 gam Methamphetamine). Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó các bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi mình đã thực hiện. HĐXX cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với các bị cáo.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cần phải xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Xét về nhân thân các bị cáo chưa có tiền sự;

Đối với bị cáo Vàng A M có 01 tiền án, ngày 23/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Tè áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 22/4/2019, sau chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo đi làm thuê ở Thị trấn M một thời gian, bị cáo không cai nghiện được, bản thân không tự cải tạo, sửa chữa những lỗi lầm để trở thành người lương thiện, mà bị cáo tiếp tục phạm tội. Đến ngày 20/6/2020 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện M khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện nay bị cáo chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Đối với bị cáo Lò Thanh T, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, Bị cáo sinh sống tại khu phố 9 Thị trấn M cho đến ngày phạm tội mới, bị cáo có nhân thân xấu đã bị TAND huyện Mường C, tỉnh Điện Biên áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 194, BLHS, xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Đến ngày 20/6/2020 bị cáo bị khỏi tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm và đã chấp hành xong các quyết định của bản án trước, thời gian mãn hạn tù được trở về nhà, bản thân bị cáo không tự cải tạo mình để trở thành người tốt, làm ăn lương thiện mà vẫn đi theo con đường cũ.

Về tình tiết giảm nhẹ các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo M là người dân tộc La Hủ sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp, do vậy nhận thức pháp luật có phần còn hạn chế. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 249 BLHS các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo khó khăn, các bị cáo đều là người nghiện chất ma túy, không có điều kiện thi hành, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo. [6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng vụ án 38 gói heroine có tổng khối lượng 3,02 gam thu giữ của Vàng A M, 01 viên Methamphetamine có khối lượng 0,09 gam thu giữ của Lò Thanh T, 01 gói heroine có khối lượng 0,01 gam thu giữ của Đao Văn T Cơ quan CSĐT Công an huyện M đã gửi toàn bộ đi giám định (không hoàn lại mẫu vật) nên không đặt ra vấn đề giải quyết. 01 lọ nhựa màu cam, 02 con dao lam, 03 mảnh giấy bạc, 38 mảnh giấy màu trắng và 01 mảnh nilon, 01 mảnh giấy còn lại sau khi xác định khối lượng; 01 chiếc bật lửa mầu xanh, 01 chai nhựa màu trắng không có nắp đậy, 01 ống nhựa hình tròn dùng để hít ma túy cần tịch thu tiêu hủy; Tịch thu sung công qu nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Vàng A M đây tiền do bị cáo bán Heroine mà có. Trả lại cho bị cáo Vàng A M số tiền 280.000 đồng đây là số tiền hợp pháp của bị cáo. HĐXX chấp nhận về việc xử lý vật chứng của Cơ quan Điều tra - Công an huyện M đã trả 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng cho Vàng A M; Trả 152.000 đồng cho Lò Thanh T; Trả 01 chiếc xe mô tô BKS 25M1-073.17 nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius màu trắng cho chị Nguyễn Thị P, trú tại khu phố 8 thị trấn Mường, huyện M, tỉnh Lai Châu là chủ sở hữu hợp pháp; Trả 01 chiếc xe mô tô BKS 25M1-04189 nhãn hiệu Honda, loại xe Future màu xám bạc, đen cho Vàng Văn C là chủ sở hữu hợp pháp.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Miễn án phí cho bị cáo Vàng A M theo điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo M ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Bị cáo Lò Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[8] Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các điều 331; điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo:

- Vàng A M phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý”, - Lò Thanh T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự ; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Vàng A M 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tình từ ngày bắt tạm giữ là ngày 11/6/2020.

+ Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự; Điều 136; Điều 331; Điều 333 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Lò Thanh T 02 (Hai) năm tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày từ (ngày 11/6/2020 đến ngày 20/6/2020), thời hạn tù còn lại tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, Tịch thu tiêu hủy 01 lọ nhựa màu cam, 02 con dao lam, 03 mảnh giấy bạc, 38 mảnh giấy màu trắng và 01 mảnh nilon, 01 mảnh giấy còn lại sau khi xác định khối lượng, 01 chiếc bật lửa màu xanh, 01 chai nhựa màu trắng không có nắp đậy, 01 ống nhựa hình tròn. Tịch thu sung công qu nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Vàng A M. Trả lại cho bị cáo Vàng A M số tiền 280.000 đồng.

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A M. Bị cáo Lò Thanh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt các bị cáo, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 12/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về