Bản án 12/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T - thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2019/HS- ST ngày 30/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST - HS ngày 02/01/2020 đối với bị cáo:

Tống Văn N, sinh năm 1988; HKTT và nơi cư trú: Xóm G, xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tống Văn H và bà Đào Thị C; Vợ: Bùi Thị Thu H; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/10/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà nội (có mặt).

Bị hại: Công ty TNHH K.

Trụ sở: Thôn N, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: anh Nguyễn Văn T- Giám đốc.

(Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/10/2019, Tống Văn N đi từ nhà ở Phú Thọ xuống huyện T, thành phố Hà Nội để tìm việc làm. Do chưa tìm được việc nên N đi lang thang và ở tại một căn nhà không có người ở tại mặt đường QL 1A, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội. Khoảng 17h ngày 15/10/2019, N phát hiện thấy một chiếc xe kéo hai bánh để ở trước cửa ngôi nhà N đang ở tạm và không có người trông coi nên N đã lấy chiếc xe đó đem đi giấu vào bụi cây trong khu công nghiệp N để chờ mang đi bán. Khoảng 0 giờ ngày 16/10/2019, N đi lang thang trên đoạn đường QL1A thuộc xã L với mục đích xem ai có sơ hở thì trộm cắp tài sản. N đi đến cửa hàng nhôm kính của Công ty TNHH K tại km 15 đường N, xã L, huyện T, Hà Nội thì thấy cửa hàng khóa ngoài, bên trong không có người nên N đi ra phía sau cửa hàng và phát hiện thấy phía bên trên cửa hàng có một ô thoáng kích thước 71x19cm để vào bên trong cửa hàng. N trèo vào bên trong cửa hàng qua ô thoáng và lấy 03 bó nhôm, mỗi bó có 10 thanh và 04 thanh nhôm lẻ, đẩy qua lỗ thủng đằng sau cửa hàng để đưa ra ngoài. Sau đó, N đi đến khu công nghiệp N lấy chiếc xe kéo mà N đã cất giấu trước đó mang đến cửa hàng nhôm rồi kéo các thanh nhôm vừa lấy trộm được cho lên xe mang đi tiêu thụ. Khi N vừa kéo xe đi được khoảng 50m thì bị tổ công tác Đồn Công an N - Công an huyện T kiểm tra hành chính, phát hiện và thu giữ 34 thanh nhôm định hình nhãn hiệu EUROSTAR ALLUMINUM màu nâu và 01 xe kéo hai bánh.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 562/KLĐG ngày 22/10/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: 34 thanh nhôm định hình nhãn hiệu EUROSTAR ALLUMINUM màu nâu trị giá 12.117.000 đồng; 01 xe kéo bằng kim loại trị giá 300.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra:

Tng Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Ngày 30/10/2019, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn T là đại diện của Công ty TNHH K 34 thanh nhôm nhãn hiệu EUROSTAR ALLUMINUM màu nâu. Anh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Đi với chiếc xe kéo hai bánh, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát nhưng chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe kéo này để tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 03/CT - VKSTT ngày 27/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Tống Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

* Bị cáo Tống Văn N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là đúng. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

- Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Bị cáo từ 6 -12 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về dân sự: Bị hại là Công ty TNHH K do anh Nguyễn Văn Thường là người đại diện theo pháp luật đã nhận lại đầy đủ tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận định giá tài sản có đủ cơ sở xác định: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 16/10/2019 tại cửa hàng nhôm kính thuộc Công ty TNHH K, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội, Tống Văn N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của Công tyTNHH K 34 thanh nhôm nhãn hiệu EUROSTAR ALLUMINUM màu nâu có trị giá 12.117.600 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự . Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo ra trước Tòa án để xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do lười lao động, ham hưởng lời bất chính nên vẫn cố tình phạm tội. Do đó, cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo bị cáo và giáo dục phòng ngừa chung cho mọi người.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là người người dân tộc thiểu là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự: «Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng ». Xét bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định và để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về bồi thường dân sự và vấn đề khác trong vụ án:

- Công ty TNHH K do anh Nguyễn Văn Thường là người đại diện theo pháp luật đã nhận lại 34 thanh nhôm nhãn hiệu EUROSTAR ALLUMINUM màu nâu và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với chiếc xe kéo hai bánh, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát nhưng chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe kéo này để tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của UBTV Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Tống Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng: Khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Tống Văn N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2019.

3. Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự ; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về