Bản án 12/2020/HS-ST ngày 10/04/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 10/04/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Nhơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Thị Th, sinh năm 1980 tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn TC1, xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh S (1945) và bà Nguyễn Thị N (chết); có chồng là Võ Văn Ph (1974) và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang được tại ngoại, có mặt.

2. Nguyễn Thị M, sinh ngày 04 tháng 4 năm 1974 tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn TC1, xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn S1 (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết); có chồng là Trần Văn H (1970) và có 02 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang được tại ngoại, có mặt.

3. Huỳnh Thị M1, sinh năm 1981 tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn TC1, xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh T (chết) và bà La Thị Đ (1946); có chồng là Nguyễn Minh T1 (1975) và có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang được tại ngoại, có mặt.

4. Trần Thị V, sinh ngày 05 tháng 7 năm 1971 tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn TC1, xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa (học vấn): 512; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần R (chết) và bà Huỳnh Thị L (1931); có chồng là Nguyễn X (1969) và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang được tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ ngày 14 tháng 02 năm 2020, Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 đến nhà Huỳnh Thị Th ở thôn Thiện Chánh 1, xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định để mở hụi. Sau khi tính tiền hụi, Th rủ đánh bài tứ sắc ăn thua bằng tiền thì M, V, M1 đồng ý. Thiên đưa 20.000 đồng cho Võ Thị Yến V và nhờ V đi mua bài tứ sắc. Th trải tấm vải màu xanh đen ra hè nhà để đánh bài. Cả nhóm thống nhất đánh bài tứ sắc ăn thua theo ván, mỗi ván có 01 người thắng, còn lại 03 người thua, mỗi người thua sẽ chung cho người thắng 30.000 đồng hoặc 50.000 đồng tùy theo nhóm bài của người thắng. Th sử sụng 1.680.000 đồng, M1 sử dụng 1.750.000 đồng, V sử dụng 600.000 đồng và M sử dụng 1.800.000 đồng trong tổng số tiền 4.800.000 đồng mang theo để đánh bài. Đến khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, bị Công an xã Tam Quan Bắc bắt quả tang, thu giữ số tiền 8.830.000 đồng, 893 lá bài tứ sắc đã qua sử dụng, 08 bộ bài tứ sắc chưa sử dụng, 01 tấm vải màu xanh đen và 04 điện thoại di động.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 19/QĐ-VKSHN ngày 26 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố các bị cáo Huỳnh Thị Th, Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố số 19/QĐ-VKSHN ngày 26 tháng 3 năm 2020, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Th từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ, xử phạt bị cáo Huỳnh Thị M1 từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ và xử phạt bị cáo Trần Thị Vân từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; các bị cáo không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ thu nhập. Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo rất hối hận về hành vi của các bị cáo, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Thị Th, Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn và với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 13 giờ ngày 14/02/2020, tại nhà của bị cáo Huỳnh Thị Th tại thôn Thiện Chánh 1, xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, bị cáo Th cùng các bị cáo Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 cùng nhau đánh bài tứ sắc ăn thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc thu trên chiếu bạc và trên người các con bạc là 5.830.000 đồng.

[2] Hành vi đánh bạc được thua bằng tiền của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, gây ảnh hưởng đến tình hình trị an tại địa phương. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở nên được chấp nhận.

[3] Trong quá trình xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; vì vậy, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Thấy rằng, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, vì vậy, không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội, mà giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe và giáo dục các bị các trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[4] Về tạm giữ vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Nhơn tạm giữ các vật chứng: Số tiền 8.830.000 đồng, 893 lá bài tứ sắc đã qua sử dụng, 08 bộ bài tứ sắc chưa sử dụng, 01 tấm vải màu xanh đen và 04 điện thoại di động. Trong quá trình điều tra, đã trả lại số tiền 3.000.000 đồng là số tiền không sử dụng vào mục đích đánh bạc và 04 điện thoại di động là đúng theo quy định của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các công cụ sử dụng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng 893 lá bài tứ sắc đã qua sử dụng, 08 bộ bài tứ sắc chưa sử dụng, 01 tấm vải màu xanh đen (hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Nhơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Nhơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Nhơn).

Tch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.830.000 đồng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Nhơn (theo phiếu ủy nhiệm chi cố 04 ngày 27/3/2020).

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Huỳnh Thị Th, Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36, của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Thị Th, Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 phạm tội Đánh bạc.

+ Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Th 09 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.

Giao bị cáo Huỳnh Thị Th cho Ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.

Bị cáo không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ thu nhập.

+ Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị M1 06 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.

Giao bị cáo Huỳnh Thị M1 cho Ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.

Bị cáo không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ thu nhập.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 06 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị M cho Ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.

Bị cáo không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ thu nhập.

+ Xử phạt bị cáo Trần Thị V 06 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.

Giao bị cáo Trần Thị V cho Ủy ban nhân dân xã TQB, huyện HN, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.

Bị cáo không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ thu nhập.

- Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 2 Điều 35 và khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự:

+ Buộc bị cáo Huỳnh Thị Th phải nộp 10.000.000 (mười triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

+ Buộc bị cáo Huỳnh Thị M1 phải nộp 10.000.000 (mười triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Thị M phải nộp 10.000.000 (mười triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

+ Buộc bị cáo Trần Thị V phải nộp 10.000.000 (mười triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

Các bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 893 lá bài tứ sắc đã qua sử dụng, 08 bộ bài tứ sắc chưa sử dụng, 01 tấm vải màu xanh đen không còn giá trị sử dụng (hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Nhơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Nhơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Nhơn).

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.830.000 đồng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Nhơn (theo phiếu ủy nhiệm chi số 04 ngày 27/3/2020).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14: Các bị cáo Huỳnh Thị Th, Nguyễn Thị M, Trần Thị V và Huỳnh Thị M1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí để sung công quỹ Nhà nước.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 10/04/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về