Bản án 12/2020/HS-PT ngày 20/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 12/2020/HS-PT NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 143/2019/TLPT-HS ngày 24 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đắk Nông.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1987 tại tinh Sơn La ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lê Thị T và 01 con; tại ngoại - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 4-2019, Nguyễn Văn Q xin ở nhờ nhà của gia đình chị Nguyễn Thị V tọa lạc tại thôn Q, xã N, huyện Đ, tỉnh Đ để đi làm thuê cho các hộ dân xung quanh. Ngày 29-4-2019, anh Trần Phước C và anh Nguyễn Văn H đi ngang qua vườn rẫy của gia đình chị V thì thấy có đặt biển bán vườn rẫy nên đi vào xem. Lúc này, anh H thấy Q đang phát cỏ cho hộ dân bên cạnh nên hỏi về việc mua bán vườn rẫy. Lợi dụng gia đình chị V không có ai ở nhà, Q nói với anh C và anh H là muốn bán chiếc máy nổ Diesel nhãn hiệu TIGER POWER D24 với giá 7.000.000 đồng. Sau khi anh C kiểm tra máy và trả giá 5.000.000 đồng nhưng Q không đồng ý.

Khong 13 giờ ngày 30-4-2019, trong khi Q cùng với anh H, anh Quách Tấn T và anh Nguyễn Thanh H uống rượu tại nhà rẫy của gia đình chị V, Q nhờ anh H nhắn với anh C là Q đồng ý bán máy nổ với giá 5.000.000 đồng. Sau đó, anh H điện thoại báo cho anh C biết và anh C đã đến gặp và đưa trước cho Q 2.000.000 đồng. Khoảng 19 giờ cùng ngày, anh C thuê xe ô tô đến chở máy nổ, khung kim loại kèm theo máy nổ và đưa cho Q số tiền 3.000.000 đồng. Sáng ngày 01-5-2019, Q bỏ trốn về huyện H, tỉnh B. Sau đó, hành vi của Q bị chị V trình báo với cơ quan chức năng.

Kết luận định giá tài sản số: 24/KLHĐĐG ngày 12-7-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ, cụ thể: Giá trị của chiếc máy nổ Diesel nhãn hiệu TIGER POWER D24 và khung kim loại kèm theo là 8.800.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2019/HS-ST ngày 11-11-2019 của Toà án nhân dân huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đắk Nông: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Quang 08 tháng tù. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và thông báo quyền kháng cáo.

Ngày 20-11-2019, bị cáo Nguyễn Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận bị Tòa án nhân dân huyện Đăk R’lấp xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng không oan và giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2019/HS-ST ngày 11-11-2019 của Toà án nhân dân huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đắk Nông đã kết án bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Đăk R’lấp đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo mức hình phạt 08 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2019/HS-ST ngày 11-11-2019 của Toà án nhân dân huyện Đăk R’lấp về phần hình phạt.

1. Áp dụng 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 08 (Tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

406
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-PT ngày 20/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về