Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 17/03/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 23/2020/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1996; Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Sử Văn V, sinh năm 1991; Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre.

(Chị N và anh V có đơn xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/02/2020, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án và đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Sử Văn V kết hôn và đăng ký kết hôn vào năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng cùng nhau sinh sống tại nhà chồng, địa chỉ: ấp A, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre, vợ chồng cùng nhau làm ăn chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do khó khăn về kinh tế, anh V mê cờ bạc, không quan tâm chăm sóc vợ con. Mặc dù, chị và gia đình đã khuyên anh V nhiều lần nhưng anh V vẫn chứng nào tật nấy. Do đó, từ tháng 8/2019 đến nay, chị và con chung quyết định chuyển về nhà cha mẹ ruột tại ấp T, xã P, huyện M để sinh sống và vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng không có gặp nhau để bàn bạc, hàn gắn tình cảm. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị và anh V có với nhau 01 con chung tên Sử Lê A, sinh ngày 30/11/2014. Hiện nay, con chung đang sống chung với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Sử Lê V được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh V vắng mặt không lý do.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N đối với bị đơn anh Sử Văn V, cụ thể:

- Về quan hệ hôn nhân: chị N được ly hôn với anh V;

- Về con chung: hiện nay con chung đang sống chung với chị N, do đó cần thiết giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị N không yêu cầu;

- Về tài sản chung, nợ chung: chị N khai không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Lê Thị Hồng N khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Sử Lê V, đồng thời yêu cầu trực tiếp nuôi con, ngoài ra chị N không có yêu cầu nào khác. Căn cứ vào đơn khởi kiện ngày 03/02/2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị N khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh V, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Sử Lê V có nơi cư trú tại ấp A, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.

[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Chị N và anh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt (BL 27, 41). Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh V.

Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Vào ngày 15/9/2014, chị N và anh V tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa chị N và anh V là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Tại biên bản lấy lời khai 20/02/2020, chị N trình bày hiện nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau nên chị N quyết định ly hôn với anh V. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập anh V đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa anh V và chị N nhưng anh V không có mặt. Ngoài ra, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và các tài liệu chứng cứ của chị N cho anh V nhưng anh V không có mặt cũng như không có ý kiến phản đối với yêu cầu ly hôn của chị N. Từ các căn cứ trên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là phù hợp.

[5] Về con chung: Chị N và anh V có với nhau 01 con chung tên Sử Lê A, sinh ngày 30/11/2014. Sau khi ly hôn, chị N yêu cầu trực tiếp nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy: hiện cháu A đang sống chung với chị N và cháu A đang tham gia học tập tại trường mẫu giáo P (BL 26). Mặc khác, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, anh V cũng không có ý kiến phản đối với việc chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao cháu A cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của chị N tạm thời không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: “Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn …”. Vì vậy, chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với bị đơn anh Sử Lê V, cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng N được ly hôn với anh Sử Lê V.

- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Sử Lê A, sinh ngày 30/11/2014.

Sau khi ly hôn, chị Lê Thị Hồng N là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Ghi nhận sự tự nguyện chị Lê Thị Hồng N tạm thời không yêu cầu anh Sử Lê V cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Sử Lê Vcó quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Hồng N khai không có nên không xem xét.

2. Án phí: Chị Lê Thị Hồng N phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008227 ngày 03/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).

3. Chị Lê Thị Hồng N và anh Sử Lê V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 17/03/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về