Bản án 12/2019/HSST ngày 26/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 12/2019/HSST NGÀY 26/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 171/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Công T; tên gọi khác: không; giới tính: Nam; sinh ngày 21/6/1993, tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn 9, xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên bố: Ngô Công Năm - sinh năm 1958; họ tên mẹ: Nguyễn Thị Phúc- sinh năm 1960; gia đình có 4 chị em, bị can là thứ 4; họ tên vợ: Lê Thị Tình - Sinh năm 1994; con: có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo đầu thú ngày 02/10/2018, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

* Bị hại:

1. Anh Nguyễn Tiến M; sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTTvà chỗ ở: Tổ 2, khu 1A, phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

2. Anh Nông Văn T; sinh năm 1994; Nơi ĐKHKTT: Thôn Bản Cao, xã Tú Đoàn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn; Chỗ ở: Tổ 4, khu 1A, phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Tiến N, sinh năm: 1972; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 8, khu 2, phường Của Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Phạm Ngọc Hồng Đức, Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Văn Quang và Chị Lê Thị Uy (Đều vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/7/2018, Ngô Công T đi từ Thanh Hóa đến xưởng sửa chữa ô tô Tiến Mạnh của anh Nguyễn Tiến M ở tổ 2, khu 1A, phường Quang Hanh thành phố Cẩm Phả, để làm thuê. Khi đến nơi, do anh Mạnh không có ở xưởng để phân việc, nên Tâm ở lại xưởng để chờ anh Mạnh về. Khoảng 10 giờ ngày 30/7/2018, Tâm ngủ dậy, thấy trong xưởng có các anh Phạm Ngọc Hồng Đức (trú tại tổ 2, khu Nam Sơn 1, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả), Nông Văn T (trú tại thôn Bản Cao, xã Tú Đoạn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn). Lúc này, Tâm hỏi mượn của anh Đức chiếc xe mô tô Swan, biển số 14F6-8132, để đi mua đồ dùng, anh Đức đồng ý. Tâm điều khiển xe đi đến phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, để vay tiền nhưng không được. Do cần tiền ăn tiêu, nên Tâm nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh Đức. Tâm đem xe đến điểm thu mua sắt vụn của anh Phạm Văn Quang, ở tổ 13, khu 2, phường Cửa Ông, bán cho anh Quang được 600.000 đồng. Sau đó, Tâm đi về xưởng ô tô Tiến Mạnh, nói với mọi người là xe mô tô của anh Đức bị Công an giao thông giữ. Đến khoảng 10 giờ ngày 31/7/2018, Tâm mượn của anh Tuân chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 để gọi điện thoại vay tiền để lấy xe, nhưng không vay được của ai, nên Tâm đã mang chiếc điện thoại của anh Tuân đến cửa hàng điện thoại không rõ địa chỉ cụ thể bán được 100.000 đồng, để ăn uống và đi chơi.

Tiếp đó, khoảng 02 giờ ngày 01/8/2018, Tâm quay lại xưởng ô tô Tiến Mạnh để lấy quần áo. Tâm nhìn thấy anh Tuân đang ngủ, bên cạnh để chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu trắng, nên nảy sinh ý định trộm cắp. Tâm cầm chiếc điện thoại cất vào túi quần áo. Tâm tiếp tục mở tủ đựng đồ lấy 01 khẩu súng bắn hơi bulông nhãn hiệu King Tony của anh Mạnh cho vào túi quần áo, rồi bỏ đi. Sau đó, Tâm đi đến cửa hàng điện thoại Phương Uy của chị Lê Thị Uy, ở tại tổ 39, khu 1B, phường Cửa Ông, bán chiếc điện thoại Samsung J7 cho chị Uy được 800.000 đồng. Còn chiếc súng bắn hơi bulông, Tâm mang bán cho anh Nguyễn Tiến N được 700.000 đồng. Số tiền trên, Tâm ăn tiêu hết, rồi bắt xe đi về nhà. Đến ngày 02/10/2018, Tâm đến Công an huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đầu thú.

Căn cứ lời khai của Ngô Công T và các tài liệu điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ của anh Nguyễn Tiến N chiếc súng bắn hơi nhãn hiệu King Tony. Còn chiếc xe máy Swan, biển số 14F6-8132, Tâm bán cho anh Phạm Văn Quang, sau đó anh Quang tháo rời để bán sắt vụn; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, do Tâm không xác định được địa điểm đã bán và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, chị Uy không nhớ là có mua hay không, chị không lưu giữ sổ mua bán, nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 78, 79, 80 ngày 11/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cẩm Phả, kết luận: Chiếc súng bắn hơi bulong nhãn hiệu King Tony, trị giá 2.200.000 đồng; Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime, trị giá 2.694.000 đồng; Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, trị giá 300.000 đồng; Chiếc xe máy Swan, biển số 14F6-8132, không đủ cơ sở để định giá. Cơ quan điều tra trả lại chiêc súng hơi trên cho anh Nguyễn Tiến M.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ngô Công T, khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên. Toàn bố số tiền bán được tài sản bị cáo đã ăn tiêu hết.

Tại cơ quan điều tra bị hại anh Nông Văn T và anh Nguyễn Tiến M đều có lời khai do tin tưởng Tâm vào làm việc tại xưởng sửa chữa ô tô Tiến Mạnh nên không cảnh giác để Tâm lợi dụng sơ hở chiếm đoạt của anh Tuân chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 và anh Mạnh chiếc súng bắn hơi bulong nhãn hiệu King Tony.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Tiến N thừa nhận việc có mua của Tâm súng bắn hơi bulong nhãn hiệu King Tony với giá 700.000đ.

Lời khai của bị cáo còn phù hợp với lời khai của những người làm chứng là Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Ngọc Hồng Đức, Phạm Văn Quang và Lê Thị Uy và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 01/CT-VKSCP ngày 07 tháng 12 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố Ngô Công T về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng đã truy tố: Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Công T 03 tháng 27 ngày tù về tội Trộm cắp tài sản, Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Ngô Công T, nếu bị cáo không bị giam, giữ về hành vi vi phạm pháp luật khác. Tại Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản, thu nhập nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo. Về dân sự: Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có quan điểm trong hồ sơ vụ án thể hiện anh Nông Văn T yêu cầu Tâm bồi thường số tiền 2.700.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo đồng ý quan điểm yêu cầu bồi thường của anh Tuân, nên ghi nhận sự thỏa thuận của hai bên. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Tiến N vắng mặt tại phiên Tòa nhưng có quan điểm không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 700.000đ.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn nhận được sự khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi lợi dụng sơ hở,lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime, trị giá 2.694.000 đồng của anh Nông Văn T và 01 chiếc súng bắn hơi bulong nhãn hiệu King Tony, trị giá 2.200.000 đồng của anh Nguyễn Tiến M. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt 4.894.000 đồng vào ngày 01/8/2018. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên chứng cứ xác định không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần thiết phải có hành phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ngô Công T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội cảu mình. Ngoài ra bị cáo đã ra đầu thú tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, người bị hại anh Nông Văn T và anh Nguyễn Tiến M đều có quan điểm xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo với mức án bằng mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp cho bị cáo hưởng mức án thấp hơn so với khung hình phạt thể hiện tinh khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tại Khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Chiếc súng bắn hơi bulong nhãn hiệu King Tony cơ quan điều tra đã thu hồi trả cho chủ sở hữu, chiếc xe máy Swan, biển số 14F6-8132, Tâm bán cho anh Phạm Văn Quang, sau đó anh Quang tháo rời để bán sắt vụn; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, do Tâm không xác định được địa điểm đã bán và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, chị Uy không nhớ là có mua hay không, chị không lưu giữ sổ mua bán, nên Cơ quan điều tra không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[6] Về dân sự: Người bị hại anh Nông Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có quan điểm trong hồ sơ vụ án thể hiện anh Tuân yêu cầu Tâm bồi thường số tiền 2.700.000 đồng. Xét yêu cầu bồi thường của anh Tuân là có căn cứ, tại phiên Tòa bị cáo đồng ý bồi thường số tiền trên cho anh Tuân nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và anh Tuân. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Tiến N không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 700.000đ, anh Nguyễn Tiến M đã nhận được chiếc súng bắn hơi bulong nhãn hiệu King Tony không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Đối với: Hành vi Ngô Công T mượn xe mô tô Swan, biển số 14F6-8132 của anh Phạm Ngọc Hồng Đức và mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 của anh Nông Văn T, sau đó mang bán. Nhưng do chiếc xe mô tô không có cơ sở để định giá tài sản và chiếc điện thoại di động Nokia 105 có trị giá là 300.000 đồng, nên không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tâm Công an thành phố Cẩm Phả đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Các anh Phạm Văn Quang, Nguyễn Tiến N và chị Lê Thị Uy có hành vi mua tài sản của Ngô Công T, nhưng không biết là tài sản do phạm tội mà có, Hội đồng xét xử không đề cập.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, Khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Ngô Công T phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Ngô Công T 03 (Ba) tháng 27 (Hai mươi bẩy) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/10/2018. Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Ngô Công T, nếu bị cáo không bị giam, giữ về hành vi vi phạm pháp luật khác.

Về dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử: Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại Nông Văn T. Bị cáo Ngô Công T bồi thường cho bị hại anh Nông Văn T số tiền 2.700.000 đồng (Hai triệu bẩy trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, anh Nông Văn T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Ngô Công T chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi xuất quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả.

Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Ngô Công T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HSST ngày 26/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về