Bản án 12/2019/HSST ngày 20/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2019/HSST NGÀY 20/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2019/HSST ngày 27 tháng 2 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Ngô Văn H (tức Ngô Văn Đ); sinh năm 1979, tại xã X, huyện X, Nam Định; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; giới tính: Nam; con ông: Ngô Văn R và bà Trịnh Thị H; Vợ là Vũ Thị Kh, có 04 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 17/12/2018 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Anh Trần Ngọc Ch, sinh năm 1996

Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn Ng, huyện Gi, tỉnh Nam Định

- Người làm chứng:

+ Bà Trịnh Thị L, sinh năm 1975

Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn Ng, huyện Gi, tỉnh Nam Định

+ Anh Vũ Đức Tr, sinh năm 1978

+ Chị Vũ Thị H, sinh năm 1983

Đều có địa chỉ: Xóm 3, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định

Tại phiên tòa: có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13-12-2018, Ngô Văn H điều khiển xe máy, không nhớ BKS (xe của bố H) từ nhà đến quán nước nhà bà Trịnh Thị L ở khu vực ngã tư bưu điện huyện Giao Thủy thuộc khu vực Tổ dân phố 3, thị trấn Ngô Đồng, huyện Giao Thủy uống nước. Trong lúc ngồi uống nước, Hán phát hiện cách vị trí của mình ngồi khoảng 01m trên bàn nhựa tại bậc hiên của bưu điện có 01 chiếc điện thoại Iphone X của anh Trần Ngọc Ch (là con trai bà L) đang sạc pin nên H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên để bán lấy tiền tiêu xài. Lợi dụng lúc anh Ch không có mặt tại quán và lúc bà L không để ý, H lại gần, rút điện thoại khỏi dây sạc và cất giấu điện thoại vào trong túi quần rồi trả tiền nước cho bà L và đi về. Trên đường về H đã tháo ốp lưng và sim điện thoại của chiếc điện thoại vừa trộm cắp được ném ra vệ đường rồi nhiều lần mở máy nhưng không mở được do máy cài mật khẩu nên bị vô hiệu hóa. Sau đó Hán mang đến bán chiếc điện thoại trên cho vợ chồng anh Vũ Văn Tr và chị Vũ Thị H ở xóm 3, xã Xuân Đài, huyện Xuân Trường được 4.000.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi bị mất điện thoại, anh Ch nghi ngờ H là người lấy trộm điện thoại của mình nên khoảng 15 giờ ngày 14-12-2018, anh Ch đến nhà gặp và hỏi H, H đã thừa nhận việc trộm cắp chiếc điện thoại Iphone X của anh Ch sau đó H dẫn anh Ch đến quán điện thoại của vợ chồng anh Tr, chị H. Anh Ch bỏ ra số tiền 4.200.000 đồng chuộc điện thoại đồng thời trình báo và giao nộp cho cơ quan Công an chiếc điện thoại mà H đã trộm cắp. Ngày 14-12-2018, Cơ quan điều tra đã triệu tập Hán lên làm việc, tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy Ngô Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên

Ngày 17/12/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Giao Thủy đã tiến hành định giá chiếc điện thoại do H đã trộm cắp của anh Ch trị giá 17.493.000 đồng .

Bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 25/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên sau khi xem xét, phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng tụng hình sự: Truy thu đối với Ngô Văn H số tiền 4.000.000đ chiếm hưởng bất chính để sung quỹ Nhà nước.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lợi dụng sơ hở trong việc trông coi tài sản của anh Ch; Ngô Văn H đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại Iphone X, màu bạc trị giá 17.493.000 đồng của anh Trần Ngọc Ch đem bán cho anh Vũ Đức Tr và chị Vũ Thị H ở xóm 3, xã Xuân Đài, huyện Xuân Trường được 4.000.000đ tiêu xài cá nhân hết. Do đó bị cáo đã phạm tội “ Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Nay cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự mới giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội cũng như đáp ứng công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại nhằm khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra; do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b,i, điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian nhất định đủ để khi trở về cộng đồng là công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 4.200.000 đồng mà anh Ch đã chuộc điện thoại do gia đình bị cáo khó khăn nên anh Ch không nhận và không có đề nghị gì về vấn đề dân sự nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17-12-2018.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố Tụng hình sự: Truy thu đối với Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng) do chiếm hưởng bất chính sung quỹ Nhà nước.

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Ngô Văn H (Ngô Văn Đ) phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HSST ngày 20/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về