Bản án 12/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LA

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh LA xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Ngọc L, sinh năm 1989, tại thành phố Hồ Chí Minh (Tên gọi khác: Su). Nơi đăng ký thường trú: B 334/19 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh; Nơi sinh sống (Cư trú): Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh LA; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T và bà Lý Thị Mỹ L (đã chết).

Tiền sự: Không;

Tiền án: Tại Bản án số 85/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa xóa án tích;

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/03/2019 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

 Bị hại:

1. Anh Nguyễn Thành Ta, sinh năm 1979 (Có mặt);

2. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1982 (Vắng mặt);

Cùng nơi cư trú: Ấp 3, xã TT, huyện CĐ, tỉnh LA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi của bị cáo: Vào đêm ngày 04, rạng sáng ngày 05/02/2019, Phạm Ngọc L đến chùa Thiên Mụ thuộc ấp 1B, xã TT, huyện CĐ, L nghe có tiếng gà gáy nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 05/02/2019, L lấy 01 (một) giỏ đệm, 01 (một) đèn pin, 01 (một) kiềm cộng lực và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 59C1-415.23 đến nhà anh Ta. L dựng xe ở sân và đi cặp bên hông xuống phía sau nhà, L thấy có gà nhưng không bắt được do gà ngủ trên cao. L quay trở lên nhà, thấy cửa nhà anh Ta không khóa, bên trong có mở đèn nhưng không có người ở nên mở cửa đi vào. L đến bàn thờ và bàn vuông ở nhà trước, lấy 02 (H) cặp chân đèn bằng đồng, 01 (một) hộp nước yến và 01 (một) hộp bánh bỏ vào giỏ đệm, xách ra để ngoài đường. Tiếp tục L vào nhà lấy 02 (H) thùng bia lon hiệu Tiger trên bộ ván đem ra ngoài. Khi L đang để tài sản trộm được lên xe thì anh Ta về đến. L bỏ tài sản lại, đẩy xe vào bụi chuối trốn. Anh Ta phát hiện, lấy cây thủ sẵn và kêu người nhà mở đèn L đề máy xe bỏ chạy nhưng bị ngã xuống đường, anh Ta cầm cây chạy lại và tri hô, L lấy đá xanh chọi anh Ta nhưng không trúng. Tiếp đến, L dùng tay đánh anh Ta nhưng thấy anh Ta không có cây nên L lấy đoạn cây dài 60cm quay lại đánh Ta, nhằm mục đích lấy xe tẩu thoát. Anh Ta dùng cây đánh trả làm cây của L gãy. Lúc này có anh Nguyễn Thành Hạ và anh Phan Tuấn Kiệt chạy đến, L thấy đông người nên bỏ chạy nhưng bị bắt thu giữ tang vật gồm: 01 (một) cặp chân đèn bằng đồng cao 50cm, nặng 10,1kg; 01 (một) cặp chân đèn bằng kim loại, nặng 2,9kg, cao 38cm; 01 (một) hộp nước yến hiệu Bidrico 06lon, thể tích 240ml/lon; 01 (một) hộp bánh ngọt hiệu Kinh Đô cosy trọng lượng 630g; 02 (H) thùng bia hiện Tiger 24 lon; 01 (một) giỏ đêm, 01 (một) đèn pin, 01 (một) kiềm cộng lực bằng kim loại cán bọc nhựa màu đen dài 32cm; xe mô tô biển kiểm soát 59C1-415.23.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 04/KL-HĐĐGTS ngày 05/03/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CĐ kết luận số tài sản mà Phạm Ngọc L trộm của anh Ta, chị H là 3.312.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Ngọc L thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo khai: Do không có tiền tiêu xài cá nhân, muốn trộm gà của anh Ta nên bị cáo chuẩn bị giỏ đệm, kềm cộng lực, đèn pin và xe môt tô để đi đến nhà anh Ta nhằm trộm gà bán lấy tiền nhưng khi đến nhà anh Ta không thấy gà, cửa nhà đóng hờ nên bị cáo lẻn vào nhà trộm tài sản của anh Ta, chị H. Bị cáo bị truy cứu về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan sai. Bị cáo không có ý kiến về Kết luận định giá tài sản; Lời khai của người bị hại và lời khai của những người làm chứng vắng mặt mà Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tự nguyện khai báo; không có ai đe dọa, cưỡng ép.

Người bị hại anh Nguyễn Thành Ta có lời trình bày tại phiên tòa: phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa. Tại phiên tòa anh Ta không yêu cầu bồi thường thiệt hại và đã nhận lại đủ tài sản.

Người bị hại chị Nguyễn Thị H và những người làm chứng trình bày tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ đúng với diễn biến sự việc như bị cáo và anh Ta đã khai tại phiên tòa. Sau khi được Hội đồng xét xử công bố lời khai của bị hại và những người làm chứng vắng mặt, bị cáo thừa nhận là phù hợp với hành vi của bị cáo, không có ý kiến phản đối.

Bản Cáo trạng số 16/CT-VKSCĐ ngày 28/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, tỉnh LA truy tố bị cáo Phạm Ngọc L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phạm Ngọc L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến tài sản của người bị hại, gây mất trật tự an Ta xã hội nên cần phải nghiêm trị.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có ông nội là liệt sĩ, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc L phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Ngọc L từ 02 năm đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị miễn phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 giỏ đệm, 01 một kiềm cộng lực bằng kim loại cán bọc nhựa bằng màu đen dài 32cm, 01 đèn pin. Tịch thu sung công quỹ 01 chiếc xe mô tô Luvias màu trắng, biển kiểm soát 59C1-415.23, số máy 073206, số khung 073205 do Phạm Ngọc L đứng tên chủ sở hữu mà bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người bị hại không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin lỗi người bị hại và xin được nhận lại chiếc xe để có điều kiện kiếm sống.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét nội dung vụ án: Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản ngày 05/02/2019, phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai, khách quan tại phiên tòa. Lợi dụng sự sơ hở của anhTa, chị H bị cáo L đã vào nhà anh Ta, chị H lét lút chiếm đoạt tài sản của anh Ta, chị H. Khi bị anh Ta phát hiện và bắt lại thì bị cáo đánh trả lại anh Ta nhằm mục đích tẩu thoát.

[2.1] Bản kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐGTS ngày 05/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CĐ, tỉnh LA kết luận: giá trị tài sản mà bị cáo L trộm của anh Ta là 3.312.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với cùng tình tiết định khung hình phạt là “Hành hung để tẩu thoát” tại điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét thấy truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, tỉnh LA đối với bị cáo là có căn cứ. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

đ)Hành hung để tẩu thoát.

[2.2] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[2.3] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có ông nội là liệt sĩ đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[2.4] Xét hình phạt đối với bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người bị hại; tác động xấu đến nếp sống văn minh lành mạnh; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có 1 tiền án chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội và nhân thân xấu. Là một thanh niên có sức khỏe, đáng lẽ bị cáo phải chăm chỉ lao động để phục vụ nhu cầu bản thân, chăm lo cho gia đình, góp phần ổn định xã hội, gìn giữ an ninh trật tự chung. Nhưng bị cáo lại thực hiện những hành vi mà pháp luật nghiêm cấm, trái với các chuẩn mực đạo đức xã hội; bị cáo muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động; trộm cắp tài sản có được từ công sức lao động vất vả của người khác.Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm mới đủ sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh công bằng của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Với tính chất hành vi, khả năng nhận thức của bị cáo, mức độ hậu quả mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục.

[2.5] Xét hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập, có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[2.6] Xét trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 giỏ đệm, 01 một kiềm cộng lực bằng kim loại cán bọc nhựa bằng màu đen dài 32cm, 01 đèn pin. Tịch thu sung công quỹ 01 chiếc xe mô tô Luvias màu trắng, biển kiểm soát 59C1-415.23, số máy 073206, số khung 073205 do Phạm Ngọc L đứng tên chủ sở hữu mà bị cáo dùng vào việc phạm tội.

[4] Về án phí: Bị cáo Phạm Ngọc L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 173 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 135; Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc L phạm tội “Trộm cắp tài sản” : Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc L 02 (H) năm tù;

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Miễn phạt tiền cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng, tang vật của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 giỏ đệm, 01 một kiềm cộng lực bằng kim loại cán bọc nhựa bằng màu đen dài 32cm, 01 đèn pin.

Tịch thu sung công quỹ 01 chiếc xe mô tô Luvias màu trắng, biển kiểm soát 59C1-415.23, số máy 073206, số khung 073205 do Phạm Ngọc L đứng tên chủ sở hữu.

Các vật chứng hiện nay Chi cục Thi hành án Dân sự huyện CĐ, tỉnh LA đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/7/2019.

Về án phí: Bị cáo Phạm Ngọc L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được Tòa án niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về