TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 03 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:
Ngô Xuân K, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1986, tại huyện L, tỉnh Bắc Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Xuân P, sinh năm 1967 và bà Ngô Thị C, sinh năm 1967; có vợ Nguyễn Thị Hồng M, sinh năm 1984 và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại; có mặt.
- Bị hại: Bà Lý Kiều V, sinh năm 1963 (đã chết)
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Anh Lý H, sinh năm 1991 (là con trai của bị hại); vắng mặt.
2. Ông Lý Trác D, sinh năm 1968 (là chồng của bị hại); có mặt.
Đều có địa chỉ: Số 132, đội 4, xóm B, thôn L, thị trấn B, thành phố B, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
- Người đại diện theo ủy quyền của Người đại diện hợp pháp của bị hại anh Lý H: Ông Lý Trác D, sinh năm 1968; Địa chỉ: Số 132, đội 4, xóm B, thôn L, thị trấn B, thành phố B, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; có mặt.
- Người phiên dịch tiếng Việt - Trung: Ông Dương Doãn X – Cán bộ Phòng PC02 Công an tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người làm chứng: Chị Hà Thị Đ, sinh năm 1983; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Xuân K điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 98C-114.38 kéo theo sơ mi rơ moóc BKS 98R-009.96 chở hàng từ B lên đến cửa khẩu N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn vào lúc 01 giờ sáng ngày 03/7/2018. Khoảng 08 giờ sáng cùng ngày, Ngô Xuân K cho bốc hàng tại bãi xe của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển T tại cửa khẩu N, đối diện bãi xe T ở bên phải đường tỉnh lộ là khu nhà liên hợp cửa khẩu. Sau khi bốc hết hàng, khoảng 13 giờ 40 phút ngày 03/7/2018, Ngô Xuân K điều khiển xe ô tô đầu kéo, kéo theo sơ mi rơ moóc lùi xe từ bãi xe T ra Tỉnh lộ 230 rồi lùi thẳng tiếp vào bãi để xe của khu nhà liên hợp mục đích để chuyển hướng đầu xe đi về bên trái theo Tỉnh lộ 230 ra Quốc lộ 4A để về nhà. Ngô Xuân K lùi xe theo hướng vuông góc với Tỉnh lộ 230, khi đuôi sơ mi rơ moóc lùi ra đến cổng bãi xe T, Ngô Xuân K quan sát gương chiếu hậu bên phải phát hiện bà Lý Kiều V - sinh năm 1963, quốc tịch Trung Quốc, đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 11 đường B, thôn K, thị trấn H, thành phố B, Quảng Tây, Trung Quốc đang đội nón đi bộ trên vỉa hè gần lòng đường từ hướng cổng Kiểm soát Biên phòng cửa khẩu N về phía khu nhà liên hợp. Ngô Xuân K dừng xe lại nhường đường cho bà Lý Kiều V đi qua và quan sát thấy bà Lý Kiều V đã đi vòng qua phía đuôi xe rồi đứng lại ở trên vỉa hè cách mép đường Tỉnh lộ 230 khoảng 02m. Thấy bà Lý Kiều V đứng tại chỗ, Ngô Xuân K bắt đầu lùi xe tiếp cho đến khi gần hết thân xe vào sân bê tông của khu nhà liên hợp thì dừng lại để chuyển sang số tiến. Lúc này bánh trước bên trái xe đầu kéo (trục 1) nằm ở vị trí mép đường Tỉnh lộ 230 nơi tiếp giáp với sân bê tông bãi để xe của khu nhà liên hợp. Ngô Xuân K quan sát bên trái thấy bà Lý Kiều V vẫn đứng ở vị trí cũ cách thân xe khoảng 03m, sau đó quay sang quan sát gương chiếu hậu bên phải thấy không có chướng ngại vật gì thì bắt đầu cài số tiến và cho xe tiến lên từ từ theo hướng vuông góc với đường Tỉnh lộ (lòng đường rộng 06m). Khi xe tiến lên được khoảng 01m, Ngô Xuân K liếc nhìn sang gương chiếu hậu trái vẫn thấy bà Lý Kiều V đứng ở vị trí cũ thì không quan sát bên trái nữa. Khi bánh trước bên trái xe đầu kéo còn cách tim đường Tỉnh lộ 230 khoảng 0,5m thì Ngô Xuân K bắt đầu đánh lái bên trái. Khi đánh lái rẽ trái, Ngô Xuân K không có tín hiệu gì, không bật đèn xi nhan trái, không bấm còi và không có ai ở dưới đường hướng dẫn. Từ lúc nhìn thấy bà Lý Kiều V lần cuối và trong quá trình đánh lái rẽ trái, Ngô Xuân K chỉ nhìn về phía trước và phía bên phải, đồng thời quan sát gương chiếu hậu bên phải để căn tránh gốc cây và gờ bê tông xung quanh gốc cây mà không quan sát bên trái của mình vì nghĩ rằng bên trái đã an toàn. Khi đầu xe đầu kéo rẽ trái được khoảng 02m thì Ngô Xuân K nghe thấy tiếng va chạm ở bên trái xe và ngay sau đó có tiếng kêu la. Ngô Xuân K lập tức dừng lại và xuống xe thì thấy bà Lý Kiều V nằm ngửa ở dưới gầm xe đầu kéo vị trí giữa trục 1 và trục 2 dưới bình hơi và bình ắc quy bên trái của xe, đầu bà Lý Kiều V hướng về phía khu nhà liên hợp, chân hướng gầm xe. Ngô Xuân K thấy bà Lý Kiều V vẫn tỉnh và phần bàn chân trái bị kẹp nát chảy máu, sau đó bà Lý Kiều V lấy điện thoại ra gọi điện cho con trai là Lý H, sinh năm 1991, đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 132, Đội 4, xóm B, thôn L, thị trấn B, thành phố B, Quảng Tây, Trung Quốc thông báo bị tai nạn giao thông. Cùng lúc đó, các cán bộ Trạm kiểm soát Biên phòng N đến hỗ trợ cấp cứu cho bà Lý Kiều V. Khoảng 05 phút sau, Lý H đến hiện trường nơi xảy ra tai nạn và xin lực lượng Biên phòng cho đưa bà Lý Kiều V về Bệnh viện thành phố B, Quảng Tây, Trung Quốc để cấp cứu. Đến khoảng 03 giờ 50 phút ngày 04/7/2018 thì tử vong.
Ngày 16/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn và Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn có Công hàm Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự đối với người bị hại Lý Kiều V. Ngày 21/12/2018, Viện Kiểm sát nhân dân khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc đã trả lời yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự.
Tại Biên bản bệnh nhân tử vong khi nhập viện trong 24 giờ của Bệnh viện nhân dân thành phố B, Quảng Tây, Trung Quốc ghi nhận tình trạng của bà Lý Kiều V như sau: Chẩn đoán tử vong: Sốc mất máu; vết thương kẹp nát từ mắt cá trở xuống của chân trái; gãy xương mu mặt bên trái; gãy xương mỏm ngang bên phải của xương đốt sống số 4, 5 bên phải, tụ huyết; vết thương dập nát, tụ huyết phần lưng và hông bên trái; gãy xương mác hai bên của xương bắp chân; gãy xương bàn chân trái và xương gót chân trái; gãy xương bàn chân phải; vết thương nứt phần âm hộ. Nguyên nhân tử vong: Sốc do mất máu; hô hấp, tuần hoàn suy kiệt.
Tại Báo cáo khám nghiệm tử thi bà Lý Kiều V của Cục Công an thành phố Bằng Tường, Trung Quốc xác định: Phần đáy xương chậu có vết thương nứt vỡ, phần eo trái, phần mông phía trái có vết bầm tím, ấn vào khu vực liên kết xương mu có cảm giác lạo xạo của xương. Đoạn giữa và cuối cẳng chân bên phải có cảm giác lạo xạo của xương, từ đoạn giữa trở xuống của cẳng chân trái bị khuyết, phần mắt cá chân trái trở xuống có vết thương dạng kẹp nát. Nguyên nhân tử vong: Phù hợp với bị tai nạn giao thông gây ra gãy xương, đa chấn thương, sốc mất máu dẫn đến tử vong.
Tại Bản Kết luận giám định số 3921/C09(TT3) ngày 17/8/2018 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu vật số 01 - mẫu dung dịch màu đỏ đã khô thu giữ tại hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra ngày 03/7/2018 tại cửa khẩu N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn là máu người và là máu của bà Lý Kiều V. Mẫu vật số 02 - mẫu vật chất mô cơ thu giữ trên mặt lốp trục 1 bánh xe bên trái của xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C - 114.38 vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 03/7/2018 tại cửa khẩu N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn là mô cơ thể người và là mô cơ thể của bà Lý Kiều V.
Đối với xe ô tô đầu kéo BKS 98C - 114.38 và sơ mi rơ moóc BKS 98R - 009.96 do Ngô Xuân K điều khiển, tại Bản giám định kỹ thuật số 79/GĐKT-ĐK ngày 09/7/2018 của Công ty cổ phần đăng kiểm xe cơ giới Lạng Sơn kết luận: Xe ô tô BKS 98C-114.38 và sơ mi rơ moóc BKS 98R - 009.96 khi xảy ra tai nạn các hệ thống an toàn của xe đầy đủ, hoạt động bình thường và đảm bảo an toàn kỹ thuật.
Về tốc độ xe thời điểm xảy ra tai nạn, tại Công văn số 3761/SGTVT- QLVTPT&NL ngày 14/8/2018 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang trả lời về tốc độ của xe ô tô trong khoảng thời gian xảy ra tai nạn như sau: Trong khoảng thời gian từ 13 giờ 30 phút đến 14 giờ 30 phút ngày 03/7/2018 xe 98C - 114.38 có tốc độ cao nhất là 03 km/h tại vị trí xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn vào lúc 13 giờ 47 phút, các thời điểm khác trong khoảng thời gian trên tốc độ của xe là 00 km/h.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ tai nạn xảy ra, Ngô Xuân K đã bồi thường cho gia đình bà Lý Kiều V số tiền 155.000.000VNĐ (một trăm năm mươi lăm triệu đồng). Ngoài số tiền này, Ông Lý Trác D, sinh năm 1968, đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 132, Đội 4, xóm B, thôn L, thị trấn B, thành phố B, Quảng Tây, Trung Quốc là chồng và là người đại diện hợp pháp của bà Lý Kiều V, anh Lý H (được gia đình bà Lý Kiều V ủy quyền) yêu cầu Ngô Xuân K phải bồi thường thêm số tiền 567.000.000VNĐ (năm trăm sáu mươi bảy triệu đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Xuân K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa bị cáo Ngô Xuân K và người đại diện theo pháp luật của bị hại là ông Lý Trác D thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại; ông Lý Trác D đề nghị xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa: Giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất mức độ của hành vi phạm tội và đề cập nhân thân, vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Ngô Xuân K mức án 18 đến 24 tháng tù về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách. Không phạt tiền đối với bị cáo Ngô Xuân K. Về bồi thường thiệt hại: Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại về việc bồi thường thiệt hại. Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo Ngô Xuân K 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C - 114.38; 01 sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 98R – 009.96 và 01 bộ giấy tờ xe ô tô mang tên Ngô Xuân K nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Xuân K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và bản kết luận, lời khai của bị hại, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận: “Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 03/7/2018, tại đường tỉnh lộ 230, đoạn qua cửa khẩu N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Ngô Xuân K có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 98C - 114.38 kéo theo sơ mi rơ moóc BKS 98R - 009.96, từ sân của khu nhà liên hợp ra đường 230. Do không chú ý quan sát, không có tín hiệu báo rẽ nên bánh trước bên trái của xe đầu kéo đã đâm vào bà Lý Kiều V, sinh năm 1963, quốc tịch Trung Quốc, hậu quả làm bà Lý Kiều V bị thương nặng và dẫn đến tử vong. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Ngô Xuân K về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.
[3] Tội phạm và hình phạt được quy định, cụ thể như sau: “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Làm chết 01 người”.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự; bị cáo nhận thức được hành vi Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là vi phạm pháp luật nhưng do quá tự tin vào tay nghề điều khiển xe ô tô của bản thân nên đã vô ý thực hiện tội phạm.
[5] Để có mức án thỏa đáng đối với bị cáo cần xem xét đến nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:
[6] Về nhân thân: Bị cáo Ngô Xuân K không có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; bị cáo có nơi cư trú cụ thể rõ ràng, ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú.
[7] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngoài tình tiết định khung, bị cáo không có tình tiết tăng nặng khác. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã đã tự nguyện bồi thường 155.000.000 đồng để khắc phục hậu quả nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[8] Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo có đủ các điều kiện quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; việc cho bị cáo hưởng án không ảnh hưởng xấu đến đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo và và người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Lý Trác D đã thỏa thuận được về việc bồi thường toàn bộ thiệt hại là 293.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường 155.000.000 đồng. Nay bị cáo Ngô Xuân K còn phải bồi thường 138.000.000 đồng( một trăm ba mươi tám triệu đồng). Thấy rằng, thỏa thuận này là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc, không trái đạo đức xã hội, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba nên cần chấp nhận.
[10] Về vật chứng của vụ án: Trả lại bị cáo Ngô Xuân K 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C - 114.38; 01 sơ mi rơ móoc biển kiểm soát 98R-009.96 và 01 bộ giấy tờ xe ô tô mang tên Ngô Xuân K nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[11] Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đề nghị cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp với nhận định nêu trên nên được chấp nhận.
[12] Bị cáo Ngô Xuân K bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a, c và g khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; người đại diện hợp pháp của bị hại được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015
I. Về tội danh và hình phạt
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Xuân K phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
2. Về hình phạt Xử phạt bị cáo Ngô Xuân K 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 (bốn) năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Ngô Xuân K cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Ngô Xuân K.
II. Về bồi thường thiệt hại:
Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại: Bị cáo Ngô Xuân K phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Lý Trác D, nơi đăng ký hộ khẩu thường tú tại số 132 Đội 4, xóm B, thôn L, thị trấn B, thành phố B, Quảng Tây, Trung Quốc số tiền là 293.000.000đồng Xác nhận bị cáo Ngô Xuân K đã bồi thường 155.000.000 đồng (một trăm năm mươi lăm triệu đồng). Nay bị cáo Ngô Xuân K còn phải bồi thường 138.000.000 đồng (một trăm ba mươi tám triệu đồng) Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
III. Về xử lý vật chứng Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Trả lại cho bị cáo Ngô Xuân K nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án gồm: 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-114.38 kèm theo 01 chìa khóa xe; 01 sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 98R-009.96; 01 Giấy phép lái xe ô tô số 240118243182 hạng A1,FC mang tên Ngô Xuân K; 01 chứng nhận đăng ký xe ô tô số 015405 mang tên Ngô Xuân K, biển số xe đăng ký 98C-114.38; 01 chứng nhận đăng ký xe số 003243 mang tên Ngô Xuân K biển số xe đăng ký 98R -009.96; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 4914302 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-114.38; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 6113167 xe sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 98R-009.96.
(Vật chứng trên được ghi chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/3/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn).
IV. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, điểm a, c và g khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Bị cáo Ngô Xuân K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.450.000 đồng (ba triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại; báo cho bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại biết có quyền kháng cáo Bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 12/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 12/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về