Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 96/2019/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trịnh Ngọc D, sinh năm 1994. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Anh Vũ Công H, sinh ngày 16-02-1985. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/02/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trịnh Ngọc D trình bày:

Vào năm 2013 chị và anh Vũ Công H hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào ngày 26/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh. Sau khi kết hôn vợ chồng về sinh sống tại ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đến đầu năm 2014 thì xảy ra nhiều mâu thuẩn thường xuyên cự cãi nhau, anh H không lo làm ăn và không quan tâm chăm sóc vợ con, chỉ lo ham chơi không xây dựng hạnh phúc gia đình. Đến tháng 02 năm 2015 thì anh H đã bỏ nhà đi biệt tích cho đến nay không liên lạc được, không ai biết tin tức gì, chị đã hỏi thăm qua bạn bè, người thân của anh H nhưng cũng không ai biết anh H đang làm gì, ở đâu, thời gian anh H bỏ đi khỏi địa phương đã 04 năm. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn anh Vũ Công H. Về con chung Vũ Duy K, sinh ngày 23-10-2013 chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh Vũ Công H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Công H đã bị Tòa án tuyên bố mất tích nên trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Tại các phiên hòa giải, công khai chứng cứ, phiên tòa lần thứ nhất và tại phiên tòa ngày hôm nay anh H vẫn vắng mặt và cũng không có tin tức gì nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn chị Trịnh Ngọc D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn anh Vũ Công H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Vũ Công H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào diễn biến tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Vũ Công H có nơi trú tại ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn khởi kiện của chị Trịnh Ngọc D có nội dung yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Vũ Công H là quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Vũ Công H đã được Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Ngọc D và anh Vũ Công H tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2013, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh H là hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con của chị Trịnh Ngọc D, Hội đồng xét xử nhận thấy: Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2014 thì giữa chị D và anh H đã phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được vì anh Vũ Công H bỏ đi biệt tích đã hơn bốn năm và Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải tuyên bố anh Vũ Công H mất tích theo quyết định số 01/2018/QĐDS-ST ngày 17-4-2018, kể từ ngày Tòa án tuyên bố anh H mất tích đến nay cũng không có tin tức gì của anh nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Trịnh Ngọc D về việc xin ly hôn anh Vũ Công H.

[5] Về con chung: Chị Trịnh Ngọc D và anh Vũ Công H có 01 người con chung là Vũ Duy K, sinh ngày 23-10-2013, thấy rằng từ khi cháu K được sinh ra cho đến nay và từ khi chị D và anh H không còn chung sống đều do chị D nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, nên căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao cho chị D được tiếp tục chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung Vũ Duy K.

[6] Về tài sản chung: Đương sự kng yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[7] Về nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[8] Về án phí: Chị Trịnh Ngọc D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Ngọc D.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Ngọc D được ly hôn anh Vũ Công H.

Về con chung: Chị Trịnh Ngọc D được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Vũ Duy K, sinh ngày 23-10-2013.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trịnh Ngọc D tự nguyện không yêu cầu anh Vũ Công H cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Không ai được ngăn cản việc thăm nom, gặp gỡ con chung.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết và có yêu cầu của các bên Tòa án có thể thay đổi người nuôi con.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Trịnh Ngọc D phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị D đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0000178 ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án sơ thẩm nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về