Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 27/03/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2019/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 2 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T – sinh năm 1992 (Có mặt)

Nguyên quán: Thôn K, xã Y , huyện T1, tỉnh Yên Bái Nơi ĐKHKTT: Số nhà 12, ngõ 1, xóm 3, thôn v, thị trấn V1, huyện Ư, TP. Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Dương Mạnh C – sinh năm 1991(Vắng mặt) Sinh trú quán: Số nhà 12, ngõ 1, xóm 3, thôn v, thị trấn V1, huyện Ư, TP. Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải chị Trần Thị T là nguyên đơn trình bày:

Chị và anh C qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V1 năm 2013. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung; bản thân anh C thì không hề có trách nhiệm với gia đình; không tu chí làm ăn thường xuyên chơi bời đàn đúm với bạn bè, liên tục đi thông ngày đêm. Chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần, chị cũng đã cố gắng nhẫn nhịn để mong vợ chồng có cuộc sống hạnh phúc nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì anh C càng chơi bời không hề hỗ trợ vợ về mặt kinh tế cũng như các công việc đối nội, đối ngoại. Năm 2016 chị có nộp đơn xin ly hôn anh C, xong tại thời điểm đó, anh C hứa sẽ thay đổi và mong muốn vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nên chị đã rút đơn ly hôn. Khi quay về chung sống anh C không hề thay đổi, đồng thời anh còn ngoại tình, chị và gia đình khuyên bảo nhưng anh không nghe. Quá mệt mỏi với cuộc sống hôn nhân như vậy nên chị đã đưa con ra nội thành Hà Nội làm việc và sinh sống một năm nay. Trong thời gian sống ly thân, anh C không hề hỏi thăm quan tâm đến mẹ con chị một lần nào. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mẫu thuẫn đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh C. Về con chung, chị và anh C có 01 con chung là Dương Trần Kim A – sinh ngày 13/02/2014. Hiện cháu còn nhỏ, là con gái hơn nữa cháu đang ở với chị nên khi ly hôn chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được quyền nuôi cháu Kim A và chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Về tài sản và công nợ chung, chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Anh Dương Mạnh C là bị đơn không có quan điểm, ý kiến gì.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Dương Mạnh C vắng mặt, chị Trần Thị T có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Dương Mạnh C.Về con chung: giao chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Trần Kim A – sinh ngày 13/02/2014. Chị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghhiên cứu các tìa liệu có trong hồ sơ vụ  án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị T đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Dương Mạnh C đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh C không có mặt. Hội đồng xét đã mở phiên toà ngày 05/3/2019 nhưng do sự vắng mặt của anh C nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ nhưng anh C vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Dương Mạnh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V1 ngày 06/9/2013 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung nên dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã nhau; anh C thường xuyên chơi bời không tu chí làm ăn. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: cuộc sống chung giữa vợ chồng chị T và anh C liên tục xảy ra xích mích, cãi nhau nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và anh C chơi bời, không tu chí làm ăn.Vợ chồng đã sống ly thân một năm. Nay chị T có đơn ly hôn, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ theo quy định của pháp luật cũng như nguyện vọng của các bên giải quyết cho chị T được ly hôn anh C; về con chung thì giao cho chị T tiếp tục được nuôi con vì cháu còn nhỏ.

Xét thấy cuộc sống giữa chị T và anh C mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị T và anh Dương Mạnh C có 01 con chung là Dương Trần Kim A – sinh ngày 13/02/2014. Chị T có quan điểm xin được nuôi cháu Kim A và không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con; anh C thì không có ý kiến, quan điểm.

Xét thấy, chị T có nguyện vọng nuôi con; anh C không có quan điểm. Bản thân chị T có chỗ ở và công việc ổn định – là nhân viên Spa thu nhập bình quân từ 8.000.000 đ đến 12.000.000 đ/tháng; cháu Kim A còn nhỏ, là cháu gái và hiện tại đang ở với chị T nên giao chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Kim Anh là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh C cho đến khi có thay đổi khác; anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Trần Thị T không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp nếu sau này chị T và anh C có yêu cầu đề nghị thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1.Chị Trần Thị T được quyền ly hôn anh Dương Mạnh C.

2. Về con chung: Giao chị Trần Thị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Trần Kim A – sinh ngày 13/02/2014; Tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh Dương Mạnh C cho đến khi có thay đổi khác. Anh Dương Mạnh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ chung: Giành quyền khởi kiện cho chị Trần Thị T, anh Dương Mạnh C bằng một vụ án dân sự khác nếu có tranh chấp.

4. Về án phí: Chị Trần Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phíđã nộp theo biên lai số 0008941 ngày 10 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 27/03/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về