Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 11/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Trong ngày 11/3/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số 509/2018/TLST-HNGĐ ngày 27/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 31/01/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/02/2019giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị L, sinh năm 1991 (Có mặt). HKTT: Số nhà 72, tổ dân phố số 4, phường M, thành phố B, tỉnh B.

* Bị đơn: Anh Phan Đình H, sinh năm 1990 (Vắng mặt). HKTT: Số nhà 72, tổ dân phố số 4, phường M, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/12/2018 và những lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn là chị Trịnh Thị L trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh H kết hôn ngày 05/05/2011 trên cơ sở hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố B, tỉnh B. Khi kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay và ở chung cùng gia đình anh H, cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống về mọi mặt, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Từ tháng 04/2018 đến nay anh chị sống ly thân nhau và không ai còn mối liên hệ gì với ai. Đến nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phan Đình H.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Phan K, sinh ngày 09/10/2011 và Phan B, sinh ngày 24/9/2014. Hiện nay cả hai con chung đang ở với anh H. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi cháu Phan B và giao cháu Phan K cho anh H được trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện nay chị ở tại nhà bố mẹ đẻ tại thôn Đồng Quan, xã Đồng Sơn, thành phố B, công việc của chị là làm quản lý cho chuỗi cửa hàng tại trung tâm thương mại Big C B, thu nhập trung bình từ 8.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng/tháng đủ điều kiện nuôi con. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 07/01/2019 và những lời khai tiếp theo tại Tòa án thì bị đơn là anh Phan Đình H trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Ngày 05/05/2011 anh kết hôn với chị Trịnh Thị L và có đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố B, tỉnh B. Trước khi kết hôn vợ chồng được tự do tìm hiểu trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau ngay và ở chung với gia đình anh đến tháng 7 năm 2017 thì ra thuê trọ ở riêng tại xã Song Khê, thành phố B. Anh xác định quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là chị L có quan hệ bất chính với người khác và chị L đã bỏ nhà đi từ ngày 11/6/2018 đến nay. Nay chị L xin ly hôn anh không đồng ý, anh xác định vẫn còn tình cảm với chị Lh và anh không muốn các con sống trong hoàn cảnh bố mẹ ly hôn. Anh đề nghị Tòa án hòa giải để anh chị về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Phan K, sinh ngày 09/10/2011 và Phan B, sinh ngày 24/9/2014. Hiện nay cả hai con chung đang ở với anh. Trường hợp phải ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh xác định vợ chồng không có tài sản chung.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Anh xác định vợ chồng tự thỏa thuận, trường hợp không tự thỏa thuận được thì anh sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được: Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành làm việc xác minh với bố mẹ đẻ của anh H là ông Phan Đình Đ và bà Nguyễn Thị T. Ông Đ, bà T cho biết chị L và anh H có đăng ký kết hôn và có thời gian tìm hiểu trước khi kết hôn. Sau khi kết hôn chị L và anh H ở chung cùng gia đình ông bà được một thời gian rồi ra ở riêng rồi lại về ở chung cùng gia đình, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Đến khoảng năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do chị L có quan hệ bất chính với người khác. Từ tháng 5 năm 2018 thì chị L đã bỏ nhà và hai đứa con đi ở nơi khác. Nay chị L có đơn khởi kiện ly hôn anh H thì gia đình đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản xác minh với ông Ngô Thế H là tổ trưởng tổ dân phố số 4, phường M, ông H cho biết: Chị L và anh H có được gia đình tổ chức cưới hỏi tại địa phương nhưng sau khi cưới thì chỉ sống tại địa phương thời gian ngắn sau đó ở riêng đến đầu năm 2018 lại về ở chung cùng gia đình anh H. Việc chị L và anh H có mâu thuẫn với nhau như thế nào thì ông không nắm được. Từ tháng 5/2018 ông có thấy anh H về sống chung cùng bố mẹ đẻ cùng hai đứa con nhưng không thấy chị L về.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng các bên không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn là chị Trịnh Thị L vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và công nợ chung như nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự như vắng mặt tại phiên họp công kahi chứng cứ và hòa giải ngày 16/01/2019 và các phiên tòa.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử; Xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: cho chị Trịnh Thị L được ly hôn anh Phan Đình H.

+ Về con chung: Giao cháu Phan K, sinh ngày 09/10/2011 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Phan B, sinh ngày 24/9/2014 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

 [1] Về thủ tục tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xét yêu cầu khởi kiện của chị L thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh Phan Đình H được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh H kết hôn ngày 05 tháng 5 năm 2011 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường M, thành phố B, tỉnh B, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên xác nhận là hôn nhân hợp pháp (theo Điều 8, Điều 9- Luật hôn nhân và gia đình 2014).

Quá trình chung sống, qua xác minh tại địa phương, cũng như theo trình bày của chị L và anh H thì cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Hiện tại, vợ chồng đã ly thân, không ai còn tình cảm và quan tâm gì đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, anh H mặc dù xin được đoàn tụ vợ chồng nhưng vắng mặt tại phiên hòa giải đoàn tụ vợ chồng ngày 16/01/2019, vắng mặt tại các phiên tòa nên Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để xử cho chị L được ly hôn anh H.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị L và anh H có 02 con chung là cháu Phan K, sinh ngày 09/10/2011 và Phan B, sinh ngày 24/9/2014. Chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phan B. Tại bản tự khai và tại phiên tòa anh H không nhất trí để chị L được nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, anh H, chị L có hai con chung, cháu K có nguyện vọng được ở cùng bố nên cần tôn trọng ý kiến của cháu. Hiện tại cháu B tuy ở với anh H nhưng cháu còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ, mặt khác chị L có công việc, thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho con chung. Xét điều kiện nuôi dưỡng của chị L và anh H là như nhau nên giao con chung Phan K cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Phan B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, đảm bảo quyền và lợi ích của con chung.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị L và anh H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trịnh Thị L được ly hôn anh Phan Đình H.

2. Về con chung: Giao cháu Phan K, sinh ngày 09/10/2011 cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Phan B, sinh ngày 24/9/2014 cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Trường hợp cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí:

- Chị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai số AA/2016/0000144 ngày 27/12/2018. Xácnhận chị L đã  nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị L có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 11/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về