Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 08/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 8/4/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 257/2018/TLST-HNGĐ ngày 6/12/2018 về "Tranh chấp Hôn nhân và gia đình" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXX-ST ngày 05/3/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 03 ngày 22/3/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn N, xã Y, thành phố T, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Công nhân

Bị đơn: Anh Trần Đức T, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Chị H có mặt tại phiên Tòa, Anh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20/11/2018 cũng như tại các bản tự khai và tại phiên Tòa, chị Đỗ Thị H trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị H và anh Trần Đức T kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S vào ngày 17/6/2003 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng họ về sống chung với bố mẹ đẻ anh T tại thôn Đ, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp và tính gia trưởng của anh T. Ngoài ra anh T còn quan hệ với người khác, chị H và gia đình đã khuyên bảo nhưng anh T không nghe và thường xuyên đánh đập chị H. Đến tháng 6/2015 chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở thành phố T ở và ly thân với anh T từ đó đến nay. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn với anh T.

2. Về con chung: Vợ chồng chị H có 03 con chung là Trần Thị H, sinh ngày 12/02/2004; Trần Đức T, sinh ngày 19/10/2007; Trần Đức C sinh ngày 25/07/2009. Chị H xin nuôi cả 3 con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con vì anh T làm ruộng thu nhập thấp còn chị làm ở công ty thu nhập mỗi tháng từ 5 đến 6 triệu đồng

3. Về tài sản chung,công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ý kiến anh Trần Đức T: Tòa án nhân dân huyện N đã thực hiện việc tống đạt thông báo thụ lý, giấy triệu tập và các thông báo về phiên họp kiểm tra việc tiếp nhận, công khai chứng cứ và hòa giải cho gia đình anh T. Cụ thể tại biên bản làm việc ngày 04/3/3019 của Tòa án nhân dân huyện N tại nhà anh Trần Đức T ở thôn Đ, xã S, chị Đỗ Thị Thu H là người nhà anh T đã xác nhận, anh T đã nhận được đầy đủ các thông báo, triệu tập mà Tòa án gửi cho anh, nhưng anh T bận đi làm nên không đến làm việc với Tòa án. Tuy nhiên qua chị Đỗ Thị Thu H anh T nêu lên quan điểm của mình về việc ly hôn như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T nhất trí ly hôn với chị H vì tình cảm vợ chồng không còn, đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến ai.

Về con chung: Anh nhất trí giao cả 03 cháu là Trần Thị H, sinh ngày 12/2/2004; cháu Trần Đức T, sinh ngày 19/10/2007; cháu Trần Đức C, sinh ngày 25/7/2009, hiện cả ba cháu đang ở với chị H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Anh sẽ tự cấp dưỡng cho các cháu tùy vào điều kiện kinh tế của mình.

Về tài sản chung, công nợ chung : Không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa: Chị H vẫn giữ nguyên quan điểm về tình cảm về con chung về tài sản chung không có thay đổi nào.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, chị H đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71, 234 BLTTDS. Anh T chấp hành không đầy đủ các quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật TTDS, không tham gia phiên họp kiểm tra tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không có mặt tại phiên tòa dù đã được triệu tập hợp lệ.

Về đường lối đề nghị như sau, căn cứ: Các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị H. Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị H và anh Trần Đức T.

2. Về con chung: Giao các con chung của chị H và anh T là cháu Trần Thị H, sinh ngày 12/02/2004; cháu Trần Đức T, sinh ngày 19/10/2007; cháu Trần Đức C, sinh ngày 25/07/2009 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3.Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp 300.000 đồng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị Đỗ Thị H và anh Trần Đức T. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

1. Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đơn của chị H, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự theo quy định của pháp luật. Đến ngày 05/3/2019 Tòa án đã Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10 /2019 /QĐXX-ST do anh T vắng mặt nên Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa số 03 ngày 22/3/2019.

2. Về hôn nhân. Chị Đỗ Thị H và anh Trần Đức T kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S vào ngày 17/6/2003. Sau khi cưới vợ chồng họ về sống chung với bố mẹ đẻ anh T tại thôn Đ, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình là hôn nhân hợp pháp.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng: Theo lời khai của chị H vợ chồng chị sống hạnh phúc với nhau đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp và tính gia trưởng của anh T. Ngoài ra anh T còn quan hệ với người khác, chị H và gia đình đã khuyên bảo nhưng anh T không nghe và thường xuyên đánh đập chị H. Đến tháng 6/2015 chị H đã mang con bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thành phố T ở và sống ly thân với anh T từ đó đến nay không quan tâm đến nhau nữa. Tuy nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng đơn phương từ lời khai của chị H dù có đúng hay không thì trên thực tế cuộc sống chung của vợ chồng chị H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn bất đồng, cãi chửi nhau. Việc sống ly thân của hai người mấy năm nay là bằng chứng xác thực, xác định tình cảm của hai người không còn tồn tại trên thực tế.

Đối với anh T từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã xác định: anh đã biết chị H làm đơn xin ly hôn anh và việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết và tiến hành hòa giải vào các ngày 11/1/2019 nhưng anh T vắng mặt không có lý do, Tòa án đã xuống tận nhà anh để làm việc. Điều đó thể hiện việc anh không còn tình cảm với chị H nữa và cũng chứng minh việc anh không muốn đoàn tụ, ngoài ra còn thể hiện ý thức pháp luật còn hạn chế của anh.

Từ thực tế cuộc sống hiện nay của vợ chồng chị H và anh T, xét khả năng đoàn tụ của hai người thực sự không còn, đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H. Xử ly hôn giữa chị H và anh T là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống. (Áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

3. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Từ khi chị H và anh T sống ly thân cả 3 con chung ở với chị H, nhưng anh T không có trách nhiệm gì với con chung dù vậy cả 3 cháu vẫn ổn định về học tập và cuộc sống. Xét thực tế chị H hiện nay là công nhân thu nhập lương mỗi tháng bình quân hơn 5 triệu đồng nên cần giao cả 3 con chung là Trần Thị H, sinh ngày 12/02/2004; Trần Đức T, sinh ngày 19/10/2007; Trần Đức C, sinh ngày 25/07/2009 cho chị H nuôi dưỡng và chăm sóc là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Xét việc giao cho chị H với điều kiện về kinh tế và sự tự nguyện của chị H thì việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra việc giải quyết. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung (Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

4. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ lời khai của chị H và anh T và kết quả xác minh ngày 17/6/2003, Ủy ban nhân dân xã S, huyện N, xác định chị H và anh T không có tài sản chung và công nợ tập thể nên không đặt ra việc giải quyết.

5.Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp theo quy định của Pháp luật. số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 5; khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị H. Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị H và anh Trần Đức T.

2. Về con chung: Giao cả 3 con chung là Trần Thị H, sinh ngày 12/02/2004; Trần Đức T, sinh ngày 19/10/2007; Trần Đức C, sinh ngày 25/07/2009 cho chị H nuôi dưỡng và chăm sóc là phù hợp. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung Chị H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Anh T không được lạm dụng việc việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung, về công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp 300.000 đồng, chị H đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0000982 ngày 6/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm chị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 08/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về