Bản án 12/2018/HSST ngày 24/05/2018 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 12/2018/HSST NGÀY 24/05/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 05 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 04 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:13 /2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Vũ Thị B, sinh năm 1990, tại Ninh Bình; nơi đăng ký HKTT: Xóm Trung Trại, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: đại lý xổ số; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn S và bà Nguyễn Thị Kh; có chồng là Nguyễn Văn Th và 3 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo hiện đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt.

2. Thái Thị Tr, sinh năm 1991, tại Ninh Bình; nơi đăng ký HKTT: Xóm Trung Trại, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Đại lý xổ số; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Thái Doãn H và bà Nguyễn Thị T; có chồng Vũ Văn H và 2 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: ngày 02/02/2017 bị Công an xã Yên Mỹ xử phạt hành chính 500.000đồng về hành vi mua số lô, số đề, đã chấp hành xử phạt hành chính vào ngày 17/3/2017; bị cáo hiện đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt.

3. Trần Văn Tr, sinh năm 1972, tại Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm Ngoài thôn Khương Dụ, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: đại lý xổ số; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Ch và bà Chu Thị M; có vợ Hoàng Thị T; có 2 con, con lớn sinh năm 1992 con nhỏ sinh năm 1994; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo hiện đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt.

4. Nguyễn Văn Th, sinh năm 1982, tại Ninh Bình; nơi đăng ký HKTT: Xóm Trung Trại, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T ( đã chết) và bà Vũ Thị B ( đã chết); có vợ là Vũ Thị B và 3 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo hiện đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vũ Văn H, sinh năm 1971, trú tại thôn 83, xã Yên thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (có mặt)

2. Anh Hoàng Văn Th, sinh năm 1988, trú tại xóm Ngoài, thôn Khương Dụ, xã yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ( vắng mặt)

3. Đinh Văn L, sinh năm 1987, trú tại Khương Dụ, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt)

Người làm chứng: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1972, trú tại xóm Ngoài, thôn Khương Dụ, xã yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (vắngmặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo có quan hệ quen biết nhau, đều là người cùng xã Yên Phong, huyện Yên Mô. Vũ Thị B làm đại lý xổ số cho Công ty xổ số kiến thiết huyện Yên Mô. Ngoài ra B còn tự đứng ra làm chủ lô, đề và cùng với chồng là Nguyễn Văn Th để bán cho khách kiếm lời. B thỏa thuận với Trần Văn Tr, Thái Thị Tr, Vũ Văn H, Đinh Văn L lấy kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu trả thưởng. Nếu Tr, H, Tr, L có số trúng thưởng, thì Vũ Thị B sẽ trả theo tỷ lệ: Đối với số đề 2 số là 1 x 70 lần; đối với số lô 01 điểm ( 23.000đồng) x 80.000đồng; lô xiên 3 là 1 x 40 lần. B triết khấu cho Tr 1.000đồng đối với 1 điểm lô, các số lô xiên không triết khấu; đối với các số lô, số đề mà L mua, H mua thì B không triết khấu. Việc thanh toán giữa B, Thường với Tr, Tr, L và H sẽ được thực hiện vào ngày hôm sau khi có kết quả trúng thưởng.

Chiều ngày 22/11/2017, B ngồi ở nhà của mình và là nơi bán xổ số, B dùng điện thoại di động có số thuê bao sim một là 01656866913 và sim hai có số thuê bao 0904824733 để mua bán số đề, số lô.

Khoảng 15 giờ 54 phút ngày 22/11/2017, sau khi bán số lô, số đề cho khách được 7.107.000đồng, Thái Thị Tr ngồi nơi bán vé xổ số mà mình làm đại lý cho công ty xổ số kiến thiết huyện Yên Mô, tại địa điểm xóm 9, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, Tr dùng chiếc điện thoại Samsung Galaxy Y có số thuê bao 016447900326, Tr gọi điện cho B sau đó thỏa thuận nhắn tin đến số thuê bao 01656866913 của B mua các số lô, số đề với tổng số tiền là 5.934.000đồng (sau khi trừ đi triết khấu 1.173.000 đồng) trong đó có số tiền đề là 4.416.000đồng, số tiền lô là 1.518.000 đồng.

Khoảng 18 giờ 12 phút ngày 22/11/2017, Vũ Văn H ngồi tại nhà mình ở thôn 83, xã Yên Thành huyện Yên Mô, sử dụng điện thoại Nokia 1280 mầu đen có số thuê bao 01694500880 gọi điện cho B về việc mua số lô số đề, sau đó nhắn tin đến số thuê bao 01656866913 của B để mua các số lô, số đề với tổng số tiền là 3.865.000đồng, trong đó số tiền đề là 280.000đồng, số tiền lô là 3.565.000đồng và lô xiên là 20.000đồng.

Chiều ngày 22/11/2017 Đinh Văn L sinh năm 1987, trú tại xóm Thị, Khương Dụ, xã Yên Phong, huyện Yên Mô đến nơi B ngồi bán xổ số tại đường 480B, thuộc xóm Cộng Hòa, xã Yên Phong để hỏi mua các số lô, số đề. Do bận việc nên B bảo L về gọi điện cho Th để trao đổi việc mua số lô, số đề, sau khi gọi điện cho Th, L đã nhắn tin vào số điện thoại của Nguyễn Văn Th để trao đổi mua số lô, số đề. Hồi 17 giờ 47 phút cùng ngày, L về nhà sử dụng chiếc điện thoại di động NOKIA có số thuê bao 0979486777 nhiều lần nhắn tin đến số thuê bao0984706093 của Th lắp trong chiếc điện thoại di động Samsung có IMEI 35806805200091101. L mua số đề với số tiền 240.000 đồng; số tiền lô là 1.265.000đồng và lô xiên 3 là 150.000đồng. Tổng số tiền là 1.655.000 đồng.

Chiều ngày 22/11/2017, sau khi bán các số lô, số đề cho khách, Trần Văn Tr dùng chiếc máy tính Casio M125 tổng hợp số tiền khách mua số lô, số đề vào giấy A4 để mua lại các sô lô, số để với B. B nhờ Th bán các số lô, số đề cho Tr. Khoảng 18 giờ 18 phút cùng ngày, Tr sử dụng chiếc máy điện thoại di động Viettel lắp sim thuê bao 0965461028 gọi đến số thuê bao 0984706093 của Th, Th dụng bút bi vỏ đen trắng, mực đen ghi số lô, số đề mà Tr mua vào 01 tờ giấy A4 với tổng số tiền 7.970.000đồng, trong đó số tiền lô là 7.920.000đồng số tiền lô xiên 3 là 50.000đồng.

Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 22/11/2017, Hoàng Văn Th, sinh năm 1988 trú tại xóm Ngoài, Khương Dụ, xã Yên Phong sử dụng điện thoại có số thuê bao 01679143869 nhắn tin đến số 0966051406 của Tr được lắp trên chiếc điện thoại Nokia 1280 mầu đen để mua các số lô, số đề của Tr với số tiền là 500.000đồng trong đó tiền đề là 40.000đồng, tiền lô là 460.000đồng, Tr không triết khấu cho Th, đồng thời giữ lại các số lô, số đề mà Th mua, nếu trúng thì Tr cũng trả thưởng cho Th giống như B trả thưởng cho Tr. Giữa Tr và Th thống nhất thanh toán vào ngày hôm sau.

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, hồi 18 giờ 20 phút ngày 22/11/2017, công an tỉnh Ninh Bình thành lập tổ công tác, kiểm tra hành chính tại gia đình Vũ Thị B, Nguyễn Văn Th và Trần Văn Tr phát hiện Th và B đang gọi điện và nhắn tin mua bán số lô, số đề với Trần Văn Tr Và những người khác qua điện thoại di động.

Thu giữ của B và Th 02 điện thoại di động Samsung, 01 điện thoại lắp sim số thuê bao 0984706093 của Th, 01 điện thoại di động lắp sim có số thuê bao 01656866913 và sim hai có số thuê bao 0904824733 của B; 01 bút bi vỏ đen trắng mực đen nhãn hiệu Ball point; 01 tờ giấy A4 và 01 tờ giấy KT 17 x 25 cmcó ghi các số lô, số đề. 

Thu giữ của Tr 02 điện thoại di động( 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280 mầu đen lắp sim số thuê bao 0966051406; 01 điện thoại di động Viettel lắp sim thuê bao 0965461028) 02 tờ giấy khổ A4 ghi các số lô, số đề; 01 máy tính nhãn hiệu Casio M125 và số tiền 9.850.000đồng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn Th, Vũ Thị B thu giữ 04 bảng số lô, số đề kích thước 17 x 25cm và số tiền 30.000.000đồng; khám xét nơi ở của Trần Văn Tr thu giữ số tiền 40.050.000đồng.

Quá trình làm việc Vũ Thị B và Nguyễn Văn Th, B khai nhận hành vi mua bán số lô, số đề với Thái Thị Tr và Vũ Văn H. Tr tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy Y và số tiền 7.107.000đồng; H tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại Nokia 1280 mầu đen; qua làm việc với Trần Văn Tr, Tr khai nhận hành vi mua bán số lô số đề với Hoàng Văn Th, Th tự nguyện giao nộp 500.000đồng.

Quá trình điều tra xác định số tiền mà B sử dụng vào việc đánh bạc là 19.424.000 đồng; Thái Thị Tr là 5.934.000 đồng; Trần Văn Tr là 8.470.000 đồng; Nguyễn Văn Th 9.626.000đồng.

Tại bản cáo trạng số: 13/CT-VKS ngày 11 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố các bị can: Vũ Thị B, Thái Thị Tr, Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô để xét xử về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1, 3 Điều 248 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố các bị cáo Vũ Thị B, Thái Thị Tr, Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th phạm tội "Đánh bạc".

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 248 BLHS; các điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. (riêng bị cáo Tr và Th không áp dụng khoản 3 Điều 248 Bộ luật hình sự; Áp dụng thêm điều 60 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Thị B; Áp dụng thêm Điều 31 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Thái Thị Tr)

Xử phạt Vũ Thị B từ 6 tháng đến 9 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 24 tháng; phạt bổ sung từ 5.000.000đ đến 7.000.000 đồng

Xử phạt Thái Thị Tr từ 9 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ ; phạt bổ sung từ 5.000.000đ đến 7.000.000 đồng.

Xử phạt Nguyễn Văn Th, Trần Văn Tr mỗi bị cáo từ 10.000.000đồng đến 12.000.000đồng

Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 41 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điều 106 BLTTHS. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền mà các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thực hiện hành vi đánh bạc cụ thể:

Trần Văn Tr số tiền 7.970.000đồng + 360.000đồng tiền Tr được triết khấu + 623.000đồng mà Tr bán cho khách qua đường chưa kịp chuyển cho Th Thái Thị Tr số tiền 7.107.000đồng

Truy thu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Hoàng Văn Th số tiền 500.000đồng

+ Vũ Văn H số tiền 3.865.000đồng

+ Đinh Văn L số tiền 1.655.000đồng

Tịch thu sung quỹ Nhà Nước: + 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel, màu đen, số ỈMEL 1: 354091064815328, số IMEl 2: 3544091064815336; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen, số IMEL 253300/05403880/4; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen, số IMEL 354148/05/681389/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ trắng, số IMEL 358.068.052.000.911/01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy Grand 2- SMG7102; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Y GT – S5360, số IMEL1: 351.863.052.167.683; 01 máy tính cầm tay nhãn hiệu Casio M 125.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi vỏ trắng den, mực đen nhãn hiệu Ball point.

Án phí: Các bị cáo Vũ Thị B, Thái Thị Tr, Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng.

Các bị cáo cho rằng bị xét xử là đúng người, đúng tội và đề nghị được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

 [2] Các bị cáo, người liên quan, người làm chứng đều có lời khai xác định chiều ngày 22/11/2017 tại nhà ở của mình tại xóm Trung Trại, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Thông qua điện thoại di động, Vũ Thị B đã mua, bán trái phép số lô, số đề với Trần Văn Tr với số tiền 7.970.000đồng; mua, bán trái phép số lô, số đề với Thái Thị Tr số lô, số đề với số tiền 5.934.000đồng; với Vũ Văn H với số tiền 3.865.000đồng; với Đinh Văn L số tiền 1.655.000đồng.

Việc mua bán số lô, số đề của B với Tr, Tr, H, L bị phát hiện khi chưa có kết quả sổ xố kiến thiết miền Bắc. Do đó số tiền mà B sử dụng vào việc đánh bạc là 19.424.000đồng, số tiền Tr sử dụng vào việc đánh bạc là 5.934.000đồng.

Đối với Trần Văn Tr, ngày 22/11/2017 tại nhà mình ở thôn Khương Dụ, xã Yên Phong, huyện Yên Mô. Trình sử dụng điện thoại di động bán các số lô, số đề cho Hoàng Văn Th với tổng số tiền là 500.000đồng. Việc mua bán số lô, số đề của Tr với Th bị phát hiện khi chưa có kết quả sổ xố kiến thiết miền Bắc. Do đó số tiền mà Tr sử dụng vào việc đánh bạc là 8.470.000đồng .

Nguyễn Văn Th được Vũ Thị B nhờ bán các số lô, số đề cho Trần Văn Tr và Đinh Văn L. Ngày 22/11/2017, T bán số lô, số đề cho Trình và L có tổng số tiền là 9.626.000đồng. Hành vi của Th là đồng phạm về tội đánh bạc.

Hành vi ghi số lô, số đề trái phép nêu trên của Vũ Thị B, Thái Thị Tr, Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th đã phạm tội đánh bạc, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Điều 248 Tội đánh bạc: “ khoản 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại điều 249 của bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Khoản 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, do vậy cần phải xử lý nghiêm minh, để giáo dục cải tạo các bị cáo và đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về vị trí vai trò: Trong vụ án bị cáo Vũ Thị B là người giữ vai trò chính, bị cáo bán các số lô, số đề cho bị cáo Tr, Tr, H và L; số tiền sử dụng vào việc đánh bạc nhiều nhất do đó bị cáo phải chịu mức án cao hơn so với các bị cáo khác. Sau đó lần lượt bị cáo Tr, Tr. Đối với Nguyễn Văn Th là người được Vũ Thị B nhờ bán các số lô, số đề cho Tr và L nên bị cáo là đồng phạm về tội đánh bạc và giữ vai trò cuối của vụ án.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tất cả các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, p khoản 1 điều 46 Bộ Luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Tất cả các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[7] Nhân thân: Tất cả các bị cáo là lao động thuần túy, đều có nhân thân tốt riêng bị cáo Thái Thị Tr có một tiền sự: Ngày 02/02/2017 bị Công an xã Yên Mỹ xử phạt hành chính 500.000đồng về hành vi mua số lô, số đề đã chấp hành xử phạt hành chính vào ngày 17/3/2017.

[8] Các bị cáo Vũ Thị B, Thái Thị Tr nhất thời phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, chỉ vì ham lợi nên các bị cáo đã đánh mất mình. Do bị cáo B và Tr đều đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, việc buộc các bị cáo phải đi cải tạo tập trung sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các cháu, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương. Để cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội thì chỉ cần xử phạt các bị cáo bằng hình phạt ít nghiêm khắc, đối với B bằng hình phạt tù cho hưởng án treo là hoàn toàn phù hợp; đối với bị cáo Tr cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ để các bị cáo nhận ra lỗi lầm của mình.

Do các bị cáo đánh bạc nhằm thu lợi bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo B và bị cáo Tr;

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Tr.

Đối với Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội thì chỉ cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt ít nghiêm khắc là phạt tiền cũng đủ để các bị cáo nhìn nhận ra lỗi lầm của mình.

[9] Đối với số tiền mà các bị cáo thỏa thuận trong việc mua, bán các số lô, số đề tương ứng với số tiền các bị cáo chơi đánh bạc: Trần Văn Tr là 7.970.000 đồng; Thái Thị Tr là 5.934.000đồng. Việc thanh toán tiền với nhau sau khi có kết quả sổ xố kiến thiết miền Bắc. Khi bị bắt chưa có kết quả xổ số, do đó cơ quan điều tra chưa thu được số tiền trên, số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc cũng là căn cứ để khởi tố vụ án, căn cứ định tội do vậy khi quyết định hình phạt thì cần thiết phải tịch thu số tiền trên nộp ngân sách Nhà Nước

[10] Đối với Vũ Văn H và Đinh Văn L là những người mua số lô, số đề trái phép với Vũ Thị B với số tiền cụ thể: H với số tiền 3.865.000 đồng; Đinh Văn l với số tiền 1.655.000đồng nhưng chưa thanh toán tiền. Hoàng Văn Th là người mua số lô, số đề của Trần Văn Tr với số tiền 500.000đồng nhưng chưa thanh toán tiền, do đó khi quyết định cần truy thu số tiền mà những người liên quan đã mua số lô, số để của B và Tr để nộp ngân sách nhà nước. ( Riêng số tiền 500.000đồng mà Th mua số lô số đề của Tr, Th tự nguyện giao nộp tại cơ quan điều tra và đang tạm giữ )

Đối với hành vi mua số lô số đề của Vũ Văn H, Đinh Văn L và Hoàng Văn Th thực hiện. Căn cứ nghị quyết 41/NQ ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, thì hành vi của Vũ Văn H, Đinh Văn L và Hoàng Văn Th chưa đủ yếu tố cấu thành tội “ Đánh bạc” Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính đối với H, L và Th là có căn cứ, đúng pháp luật.

[11] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 máy tính cầm tay Casio M 125; 06 chiếc điện thoại di động là phương tiện, công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước; 01 bút bi vỏ trắng đen nhãn hiệu Ball poit là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 87.507.000đồng thu giữ ( trong đó thu giữ của Vũ Thị B số tiền 30.000.000đồng; của Trần Văn Tr số tiền 49.900.000đồng; của Thái Thị Tr tự giao nộp 7.107.000; của Hoàng Văn Th tự nguyện giao nộp 500.000đồng) Qua điều tra xác định số tiền 30.000.000đồng của B và 40.050.000đồng của Tr không liên quan đến hành vi phạm tội do dó, cơ quan điều tra đã trả lại cho B và Tr. Số tiền còn lại là 17.457.000đồng cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 2 chiếc điện thoại của Hoàng Văn Th và Đinh Văn L, quá trình điều tra xác định Th và L đã bị mất do đó cơ quan điều tra không thu hồi được

Căn cứ điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 và điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[12] Ngoài hành vi phạm tội ngày 22/11/2017, thì Vũ Thị B, Trần Văn Tr và Thái Thị Tr còn khai từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 11 năm 2017 các bị cáo nhiều lần bán các số lô, số đề cho những người không quen biết. Ngày 22/11/2017, B mua của Đàm Thị D, sinh năm 1983, trú tại xóm Cầu, xã Yên Từ huyện Yên Mô các số lô, số đề với số tiền 5.800.000đồng; mua của Nguyễn Văn K, sinh năm 1985, trú tại thôn Phú Mỹ, xã Yên Phong, huyện Yên Mô 250 điểm lô tương đương với số tiền 5.750.000đồng; bán các số lô, sô đề cho Thái Thị Tr vào những ngày trước đó có sô tiền 11.826.000đồng; Tr bán số lô, số đề cho nhiều người không quen biết số tiền 8.953.000đồng, cho Nguyễn Quang H, sinh năm 1988, trú tại xóm ngoài, Khương Dụ, xã Yên Phong, huyện Yên Mô với số tiền 3.220.000đồng. Kết quả điều tra, không có căn cứ để xử lý đối với B, Tr, D về các hành vi này. Riêng đối với K và H cơ quan cảnh sát điều tra chưa lấy được lời khai, do đó tách tài liệu tiếp tục điều tra làm rõ.

[13] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

 [14] Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 248 BLHS; các điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.(riêng bị cáo Tr và Th không áp dụng khoản 3 Điều 248 Bộ luật hình sự; Áp dụng thêm điều 60 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Thị B; Áp dụng thêm Điều 31 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Thái Thị Tr)

Tuyên bố các bị cáo Vũ Thị B, Thái Thị Tr, Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th phạm tội “ đánh bạc”.

2. Về hình phạt

2.1 Xử phạt: Vũ Thị B 6 ( sáu ) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Vũ Thị B cho Uỷ ban nhân dân xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo Vũ Thị B thường trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự

+ Phạt bổ sung 7.000.000đồng (bẩy triệu đồng).

2.2 Xử phạt: Thái Thị Tr 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đối với Thái Thị Tr.

Giao bị cáo Thái Thị Tr cho Uỷ ban nhân dân xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo Thái Thị Tr thường trú để giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

+ Phạt bổ sung 7.000.000đồng ( bẩy triệu đồng).

+ Miễn khấu trừ thu nhập.

2.3 Xử phạt: Trần Văn Tr số tiền 10.000.000đ (mười triệu)

2.4 Xử phạt Nguyễn Văn Th số tiền 10.000.000đ (mười triệu)

3. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền mà các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thực hiện hành vi đánh bạc cụ thể:

3.1 Trần Văn Tr số tiền 7.970.000đồng + 360.000đồng tiền Tr được triết khấu + 623.000đồng mà Tr bán cho khách qua đường chưa kịp chuyển cho Th (được trừ vào số tiền đã thu giữ của Trần Văn Tr 9.850.000đồng – 8.953.000đồng, còn lại số tiền 897.000 đồng)

3.2 Thái Thị Tr số tiền 7.107.000đồng được trừ vào số tiền mà Tr đã tự giác giao nộp là 7.107.000đồng

3.3 Truy thu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Hoàng Văn Th số tiền 500.000đồng, do Hoàng Văn Th đã tự nguyện giao nộp số tiền 500.000đồng, số tiền này sẽ được nộp ngân sách Nhà Nước.

+ Vũ Văn H số tiền 3.865.000đồng (Ba triệu tám trăm sáu mươi lăm nghìn đồng

+ Đinh Văn L số tiền 1.655.000đồng (một triệu sáu trăm năm mươi lăm nghìn đồng)

Số tiền Trần Văn Tr, Thái Thị Tr và Hoàng Văn Th đang được tạm giữ tại tài khoản tạm giữ của chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô theo giấy ủy nhiệm chi ngày 10/4/2018 giữa đơn vị trả tiền Công an huyện Yên Mô với đơn vị nhận tiền Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô.

4. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

4.1 Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel, màu đen, số ỈMEL 1: 354091064815328, số IMEl 2: 3544091064815336; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen, số IMEL 253300/05403880/4; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen, số IMEL 354148/05/681389/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ trắng, số IMEL 358.068.052.000.911/01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy Grand 2-SMG7102; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galasy Y GT – S5360, số IMEL1: 351.863.052.167.683; 01 máy tính cầm tay nhãn hiệu Casio M 125.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi vỏ trắng den, mực đen nhãn hiệu Ball point. 

4.3 Trả lại cho Trần Văn Tr số tiền còn lại 897.000đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.  (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 4 năm 2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô và ủy nhiệm chi ngày 10/4/2018).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án, buộc: Vũ Thị B, Thái Thị Tr, Trần Văn Tr và Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HSST ngày 24/05/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:12/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về