Bản án 12/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2018/HS-ST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2018 theo Q định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo: Tống Văn Q - Sinh ngày 11 tháng 11 năm 1975 tại Nam Định.

Nơi cư trú: Xóm 4, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Văn Q sinh năm 1953, đã chết, con bà Hoàng Thị H sinh năm 1954 hiện đang làm ruộng tại Xóm 4, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định, gia đình có 02 anh em, Q là con thứ nhất, có vợ là Trần Thị H sinh năm 1978 hiện làm công nhân tại xã N; Có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/12/2017 đến ngày 18/12/2017 chuyển tạm giam hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định, có mặt;

- Người làm chứng:

1. Bà Phạm Thị C – Sinh năm: 1965;

Nơi cư trú: Xóm 2, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

2. Anh Trịnh Đức A – Sinh năm: 1998;

Nơi cư trú: Xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

3. Anh Vũ Đức T – Sinh năm: 1998;

Nơi cư trú: Xóm 1, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 10 phút ngày 15/12/2017 Trịnh Đức A, sinh năm 1998, ở xóm 3, xã N, huyện N rủ Vũ Văn T, sinh năm 1998, ở xóm 1, xã N, huyện N đi mua ma túy, T đồng ý. Trịnh Đức A điện thoại cho Tống Văn Q, sinh năm 1975, ở xóm 4, xã N, huyện N để hỏi mua ma túy, Q đồng ý và hẹn Đức A đến đường dong thuộc xóm 2, xã N, huyện N để thực hiện việc mua bán. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Đức A và T gặp Q tại đường dong xóm 2, xã N, huyện N, Đức A đưa cho Q 300.000 đồng, Q nhận tiền rồi đưa cho Đức A 03 gói nhỏ. Đức A vừa nhận thì bị lực lượng Công an huyện N phát hiện quả tang. Thu giữ ở tay trái Đức A 03 gói nhỏ (gồm: 02 gói giấy màu vàng, 01 gói giấy màu xanh) bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, niêm phong (ký hiệu M). Đức A khai nhận đó là Heroine vừa mua của Q với giá 300.000 đồng. Thu giữ trong túi quần sau bên phải Q đang mặc 300.000 đồng, Q khai nhận là tiền vừa bán ma túy cho Đức A; thu giữ trong túi áo khoác Q đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có chứa 14 gói nhỏ (gồm: 02 gói giấy bạc màu trắng, 03 gói giấy màu xanh, 09 gói giấy bạc màu vàng) bên trong đều chứa chất rắn dạng cục màu trắng, niêm phong (ký hiệu M1). Q khai nhận đó là Heroine cất giấu mục đích bán kiếm lời. Ngoài ra còn thu giữ của Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng có lắp sim số 0984536951. Tổ công tác đã đưa Q, Đức A, T cùng toàn bộ vật chứng về UBND xã N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Tống Văn Q không thu giữ đồ vật, tài liệu gì. Tại bản kết luận số 1017/GĐKTHS ngày 16/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong kí hiệu M và M1 gửi giám định đều là chất ma túy. Loại chất ma túy:Heroine.Tổng khối lượng mẫu M: 0,025 gam và tổng khối lượng mẫu M1: 0,551 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Tống Văn Q đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Về nguồn gốc ma túy, Q khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 14/12/2017, Q đi bộ ra khu vực ngã tư đường Đen thuộc huyện N mua của mộtngười  phụ nữ không biết tên tuổi địa chỉ giá 700.000 đồng được 19 gói nhỏ heroin về nhà Q đã sử dụng 02 gói. Ngày 15/12/2017, Trịnh Đức A hỏi mua, Q đã bán cho Đức A 03 gói với giá 300.000 đồng, còn 14 gói Q cất giấu trong người mục đích bán lấy lãi thì bị bắt giữ.

Bản cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 25/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Tống Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như tội danh và điều luật đã nêu; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Tống Văn Q từ 03 (Ba) năm đến 03(Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù; Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự 1999, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng; Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tự nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã ăn năn hối lỗi, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt và xin miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Tống Văn Q tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định khoảng 18h30 phút ngày 15/12/2017 tại đường dong thuộc xóm 2, xã N, huyện N tổ công tác Công an huyện N phát hiện bắt quả tang Tống Văn Q bán trái phép 0,025 gam heroine cho Trịnh Đức A với giá 300.000 đồng. Ngoài ra Tống Văn Q còn tàng trữ trong người 0,551 gam heroine để bán kiếm lời. Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Tống Văn Q đã xâm phạm tới chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang tích cực đấu tranh phòng chống các tệ nạn ma tuý, nhằm loại bỏ ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm minh là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn kỷ cương tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong quá trình tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, có sự ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình Sự năm 1999. Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo có khó khăn nên miễn áp dụng hình bổ sung đối với bị cáo.

[5] Đối với Trịnh Đức A và Vũ Văn T đều là người nghiện ma túy. Ngày 15/12/2017 Đức A rủ T đi mua ma túy của Tống Văn Q về sử dụng, lượng heroine nhỏ chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trịnh Đức A và Vũ Văn T là phù hợp.

[6] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Tống Văn Q ngày 14/12/2017  tại khu vực ngã tư đường Đen thuộc huyện N, tỉnh Nam Định hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N quyết định tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp. [7] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 03 gói heroine thu giữ của Trịnh Đức A (Mẫu M) có khối lượng 0,025 gam heroine (hoàn trả sau giám định 0,006 gam); 14 gói heroine thu giữ trên người của Tống Văn Q (Mẫu M1) có khối lượng 0,551 gam heroine (hoàn trả sau giám định là 0,520 gam) cùng toàn bộ vỏ bao gói mà Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ của Tống Văn Q là tiền Q bánHeroine cho Trịnh Đức A mà có cần tịch thu sung công quỹ nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng lắp sim số 0984536951 Q đã sử dụng vào việc phạm tội, thấy cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Tống Văn Q phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136  Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1]. Tuyên bố bị cáo Tống Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

[2]. Xử phạt bị cáo Tống Văn Q 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2017.

[3] – Tịch thu tiêu huỷ: 0,006 gam Heroine (mẫu M) thu giữ của Trịnh Đức Anh và 0,520 gam Heroine (mẫu M1) thu giữ của Tống Văn Q cùng toàn bộ vỏ bao gói mà phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000 đồng và tịch thu hoá giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen lắp sim số 0984536951 đã qua sử dụng đều thu giữ của Tống Văn Q.

Vật chứng của vụ án đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/01/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N với Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.[4]. Buộc bị cáo Tống Văn Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Án xử công khai có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:12/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về