Bản án 12/2018/DS-ST ngày 22/01/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 12/2018/DS-ST NGÀY 22/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 22 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C xét xử công khai vụ án thụ lý số 292/TLST-DS ngày 10 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Hợp đồng góp hụi” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 236/2017/QĐXX-ST ngày 28 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị H (bà Hai Y), sinh năm 1963 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bé B, sinh năm 1980 (Có mặt);

Ông Nguyễn Minh Q, sinh năm 1974 (Có đơn xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/10/2017 và đơn khởi kiện, bản tự khai bổ sung ngày 31/10/2017 trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày: Chị có tham gia chơi 3 dây hụi do chị Nguyễn Thị Bé B và anh Nguyễn Minh Q làm đầu thảo. Cụ thể như sau:

- Dây 1: Hụi mở ngày 10/7/2016 (AL), loại hụi 3.000.000 đồng/tháng, hụi gồm29 phần, chị tham gia 01 phần. Chị đã đóng được 13 kỳ với số tiền 39.000.000 đồng. Ngày 20/7/2017 (AL) chị B, anh Q tuyên bố vỡ hụi.

- Dây 2: Hụi mở ngày 15/10/2015 (AL), loại hụi 2.000.000 đồng/tháng, hụi gồm 26 phần, chị tham gia 01 phần. Chị đã đóng được 22 kỳ với số tiền 44.000.000 đồng. Ngày 20/7/2017 (AL) chị B, anh Q tuyên bố vỡ hụi. Ngày 04/7/2017 (AL) chị B có trả cho chị được 10.000.000 đồng. Hiện còn nợ lại 34.000.000 đồng.

- Dây 3: Hụi mở ngày 20/4/2016 (AL), loại hụi 1.000.000 đồng/tháng, hụi gồm 21 phần, chị tham gia 01 phần. Chị đã hốt hụi, hiện chị còn nợ lại 6.000.000 đồng. Nay chị yêu cầu chị Nguyễn Thị Bé B, anh Nguyễn Minh Q phải trả cho chị số tiền nợ hụi 67.000.000 đồng, trả ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

* Tại bản tự khai đề ngày 31/10/2017 và trong quá trình xét xử, bị đơn chị Nguyễn Thị Bé B trình bày: Vào năm 2014 chị có đứng ra tổ chức và làm chủ các dây hụi, chị H có tham gia chơi B dây hụi như H trình bày. Số tiền chị H đã đóng ở các kỳ khui hụi như sau:

- Dây 1: Hụi mở ngày 10/7/2016 (AL), loại hụi 3.000.000 đồng/tháng, hụi gồm29 phần, chị H tham gia 01 phần. Chị H đã đóng được 13 kỳ thì vỡ hụi. Số tiền chịH đã đóng là 29.900.000 đồng.

- Dây 2: Hụi mở ngày 15/10/2015 (AL), loại hụi 2.000.000 đồng/tháng, hụi gồm 26 phần, chị H tham gia 01 phần. Chị H đã hốt hụi với số tiền 44.000.000 đồng, chị đã giao cho chị H số tiền 10.000.000 đồng. Hiện còn nợ lại chị H số tiền 34.000.000 đồng.

- Dây 3: Hụi mở ngày 20/4/2016 (AL), loại hụi 1.000.000 đồng/tháng, hụi gồm21 phần, chị H tham gia 01 phần. Chị H đã đóng được 15 kỳ thì vỡ hụi. Số tiền chị H còn nợ lại 6.000.000 đồng.

Hiện chị B còn nợ lại chị H số tiền 57.900.000 đồng. Nay chị H yêu cầu chị phải trả số tiền nợ hụi 67.000.000 đồng, trả ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật chị không đồng ý. Chị đồng ý trả lại tiền hụi sống cho chị H là 57.900.000 đồng, do hoàn cảnh khó khăn chị xin trả dần mỗi tháng 1.500.000 đồng, trả đến khi hết nợ. Việc chơi hụi giữa chị và các hụi viên thì chồ ng chị là anh Nguyễn Minh Q không biết, anh Q chỉ biết chị có làm đầu thảo hụi và khui hụi tại nhà mà thôi, chị là người mở hụi chị sẽ đứng ra trả nợ cho các hụi viên.

* Tại bản tự khai đề ngày 31/10/2017 và trong quá trình xét xử, bị đơn anh Nguyễn Minh Q trình bày: Vợ anh là chị Nguyễn Thị Bé B tổ chức chơi hụi và làm chủ hụi do các anh em tham gia chơi hụi như thế nào anh không hề biết. Anh chạy xe lôi và đi làm công ty cả ngày cả đêm nên không biết hụi của vợ anh. Nay đối với yêu cầu khởi kiện của chị H buộc anh có trách nhiệm liên đới với chị Nguyễn Thị Bé B trả tiền hụi cho các hụi viên là không đúng. Anh không đồng ý trả và không tham gia vụ kiện.

Tại phiên tòa chị Lê Thị H đồng ý cho chị Nguyễn Thị Bé B, anh Nguyễn Minh Q trả số tiền nợ hụi 57.900.000 đồng vào ngày 22/02/2018.

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy phát biểu về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự và việc giải quyết vụ án: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H. Buộc chị Nguyễn Thị Bé B và anh Nguyễn Minh Q có nghĩa vụ trả cho chị Lê Thị H số tiền hụi 57.900.000.000 đồng, trả vào ngày 28/02/2018.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị đơn anh Nguyễn Minh Q có đơn xin giải quyết vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Q là có căn cứ đúng quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về tố tụng: Chị Lê Thị H có đơn khởi kiện yêu cầu chị Nguyễn Thị Bé B và anh Nguyễn Minh Q trả số tiền nợ hụi 67.000.000 đồng, đây là tranh chấp hợp đồng góp hụi được quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện C theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung: Tại phiên tòa sơ thẩm chị Lê Thị H và chị Nguyễn Thị Bé B khai thống nhất việc chị Lê Thị H có tham gia 03 dây hụi do chị Nguyễn Thị Bé B làm đầu thảo, hiện chị B còn nợ số tiền hụi đã đóng qua các kỳ khui hụi. Nay chị Lê Thị H thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu chị Nguyễn Thị Bé B và anh Nguyễn Minh Q liên đới trả số tiền hụi 57.900.000 đồng trả vào ngày 22/02/2018. Bị đơn chị Nguyễn Thị Bé B đồng ý trả cho chị Lê Thị H số tiền hụi 57.900.000 đồng vào ngày22/02/2018 như chị H yêu cầu nhưng chị B không đồng ý để anh Q cùng trả nợ chochị H, còn anh Nguyễn Minh Q không đồng ý liên đới cùng với chị Nguyễn Thị Bé B trả số tiền nợ hụi này vì anh không có tham gia mở hụi cùng với chị Bé B.

 [4] Xét, yêu cầu khởi kiện của chị H là có cơ sở để chấp nhận. Bỡi lẽ, chị B cũng thừa nhận là chị H đã đóng hụi đến khi bể hụi là 57.900.000đ và tại phiên tòa hôm nay chị B cũng tự nguyện trả số tiền hụi 57.900.000 đồng trả vào ngày 22/02/2018 như yêu cầu của chị H. Do đó, bị đơn chị Nguyễn Thị Bé B phải có trách nhiệm trả số tiền hụi 57.900.000 đồng cho chị Lê Thị H là có căn cứ.

Ngoài ra, chị Lê Thị H có yêu cầu anh Nguyễn Minh Q có nghĩa vụ liên đới cùng với chị Nguyễn Thị Bé B trả số tiền nợ hụi tổng cộng 57.900.000 đồng, trả một lần số tiền hụi này. Chị B không đồng ý để anh Q cùng trả nợ và anh Q cũng không đồng ý trả số tiền nợ hụi cùng với chị Bé B do anh không có tham gia hụi cùng với vợ anh, nhưng theo lời trình bày của chị Bé B thì anh Q biết việc chị B có làm đầu thảo hụi và hụi được khui tại nhà của anh Q, chị B. Mặc khác, anh Q không trực tiếp tham gia hụi nhưng chị Bé B thừa nhận sử dụng số tiền hốt hụi để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong gia đình, anh Q là chồng của bà Bé B đây là số nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên anh Q phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ hụi cùng với chị Bé B theo quy định tại Điều 27, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H, buộc chị Nguyễn Thị Bé B và anh Nguyễn Minh Q có nghĩa vụ liên đới trả số tiền nợ hụi là 57.900.000 đồng, trả vào ngày 22/02/2018.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị H tự nguyện chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Xét sự tự nguyện của chị H là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận. [6] Xét lời đề nghị của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 184, Điều 185, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 267, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 471, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H.

1. Buộc anh Nguyễn Minh Q và chị Nguyễn Thị Bé B có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Lê Thị H số tiền hụi 57.900.000 đồng, trả vào ngày 22/02/2018.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Chị Lê Thị H tự nguyện chịu 2.895.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị Lê Thị H đã tạm nộp số tiền tạm ứng án phí là 2.150.000 đồng theo biên lai thu tiền số 14825 ngày 10/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C. Chị H còn phải nộp thêm số tiền 745.000 đồng.

3. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/DS-ST ngày 22/01/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:12/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về