TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 12/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 14/2017/TLST-HNGĐ ngày 23/3/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2017/QĐXXST - HNGĐ ngày 22/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2017/QĐST-HNGĐ ngày 15/9/2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị Thuỳ T, sinh năm 1990
Địa chỉ: Thị trấn B, huyện H, thành phố Hải Phòng; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Phạm Tất Đ, sinh năm 1988
Địa chỉ: Thị trấn B, huyện H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/3/2017 và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Cát Hải của nguyên đơn chị Đoàn Thị Thuỳ T trình bày như sau:
Về hôn nhân: Tháng 3/2016 chị và anh Phạm Tất Đ có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn B, huyện H, thành phố Hải Phòng, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình chung sống anh chị sống hạnh phúc được một thời gian rất ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên kết hôn với nhau khi còn rất trẻ, chưa có sự tìm hiểu kỹ càng, hôn nhân không xuất phát từ tình yêu nên khi về chung sống tính cách và cách sống của hai bên khác biệt nhau. Xuất phát từ tính cách và cách sống cho nên trong cuộc sống không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã gay gắt, bên cạnh đó chị T có mâu thuẫn với mẹ chồng do đó dẫn tới việc quan hệ giữa các bên ngày càng căng thẳng, trầm trọng. Cuối năm 2016 chị T nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn, trong quá trình giải quyết Toà án đã tiến hành hoà giải, thuyết phục để hàn gắn quan hệ vợ chồng, chị T đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên sự việc chỉ duy trì được một thời gian ngắn đến tháng 3 năm 2017, mâu thuẫn giữa chị và anh Đ lại trở nên trầm trọng hơn. Nhận thấy quan hệ vợ chồng không thể cải thiện, chị Đoàn Thị Thùy T khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn anh Phạm Tất Đ.
Tại biên bản tự khai của anh Phạm Tất Đ cũng xác nhận anh chị kết hôn tháng 3/2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn B và hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Anh Đ cho rằng trong quá trình chung sống hai vợ chồng anh chỉ xảy ra mâu thuẫn nhỏ. Nguyên nhân là do hiểu lầm dẫn đến việc cãi vã mặt khác chị T quá nóng nảy nên bế con bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Anh Đ đề nghị Toà án hoàn giải cho hai bên đoàn tụ gia đình. Quan điểm của anh Đ không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Chị T và anh Đ có một con chung là Phạm Đoàn Hồng A, sinh ngày 18/5/2016. Chị Đoàn Thị Thùy T đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng không yêu cầu anh Phạm Tất Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Đ không đồng ý ly hôn nên không đưa ra quan điểm về việc nuôi con.
Về tài sản chung: Chị T, anh Đ không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa chị Đoàn Thị Thùy T vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Tất Đ và đề nghị cho chị được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải phát biểu ý kiến như sau:
Về mặt tố tụng, quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật; nguyên đơn tuân thủ nghiêm chỉnh yêu cầu của Tòa án, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa án.
Về nội dung vụ án, thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa chị Đoàn Thị Thùy T và anh Phạm Tất Đ đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Đoàn Thị Thùy T được ly hôn với anh Phạm Tất Đ. Căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình giao con chung Phạm Đoàn Hồng A cho chị Đoàn Thị Thùy T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dương nuôi con cho anh Phạm Tất Đ. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền của Tòa án: Đây là vụ án Ly hôn và tranh chấp nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong đó nguyên đơn là chị Đoàn Thị Thùy T và bị đơn là anh Phạm Tất Đ đều có địa chỉ thị trấn B, huyện H, thành phố Hải Phòng, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải.
[2] Về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án: Toà án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải để hai bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án theo quy định tại Điều 205, 208 và Điều 209 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên tại phiên hoà giải bị đơn là anh Phạm Tất Đ đều không có mặt, hai bên đương sự không thống nhất được việc giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án. Toà án đã Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 15/9/2017 nhưng anh Đ vắng mặt nên đã phải hoãn phiên tòa. Mặc dù tại phiên tòa hôm nay anh Đ vắng mặt nhưng căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
[3] Về quan hệ vợ chồng: Chị T và anh Đ có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đây là quan hệ hôn nhân phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được pháp luật bảo vệ.
Quá trình chung sống do hai bên có những bất đồng về quan điểm sống, tính cách và cách sống khác nhau, anh chị thường cãi vã, gây gổ, có khi còn xúc phạm nhau dẫn đến mẫu thuẫn trong gia đình. Cuối năm 2016 Toà án nhân dân huyện Cát Hải đã tiến hành thụ lý giải quyết đơn ly hôn của chị Đoàn Thị Thùy T, trong quá trình giải quyết Toà án đã tiến hành hoà giải cho hai bên, chị T đã chấp nhận rút đơn để về đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên chỉ được một thời gian ngắn mâu thuẫn giữa hai vợ chồng lại trở nên căng thẳng. Mặt khác anh Đ đã được Tòa án triệu tập nhiều lần để tiến hành hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng đoàn tụ nhưng anh Đ không đến, điều đó chứng tỏ anh Đ không còn thiết tha với hạnh phúc gia đình. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy, việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị Đoàn Thị Thùy T đề nghị giao con chung là Phạm Đoàn Hồng A, sinh ngày 18/5/2016 cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đồng thời chị không yêu cầu anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Cháu Phạm Đoàn Hồng A tính đến ngày xét xử vẫn chưa đủ 36 tháng tuổi vì vậy, đối với yêu cầu của chị T về việc nuôi con là có căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.
[5] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Mặc dù yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị Thùy T được chấp nhận nhưng căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị T vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về quan hệ vợ chồng: Áp dụng Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị Thuỳ T; chị Đoàn Thị Thuỳ T được ly hôn với anh Phạm Tất Đ.
2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình: Giao con chung Phạm Đoàn Hồng A, sinh ngày 18/5/2016 cho chị Đoàn Thị Thuỳ T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Phạm Tất Đ.
Sau khi ly hôn không ai được quyền cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Chị Đoàn Thị Thuỳ T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ đi số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải theo biên lai thu tiền số 0003969 ngày 22/3/2017.
4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 12/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 12/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về