Bản án 121/2020/HS-ST ngày 16/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 16/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 113/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1998 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P, xã T, thị xã P, tỉnh B; Chỗ ở: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H và bà Trần Thị C; Tiền sự: Không; Tiền án: Năm 2018, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (nay là thị xã Phú Mỹ), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 45/2018/HSST ngày 11 – 4 – 2018, chấp hành xong hình phạt ngày 19 – 7 – 2018.

Bị bắt ngày 20 – 02 – 2020 (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Ông Từ Minh C, sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn X, xã L, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Võ Ngọc S, sinh năm 1971; Địa chỉ: ấp P, xã T, thị xã P, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn T là đối tượng nghiện ma túy, đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 17 – 10 – 2019, T đi bộ từ thị xã Phú Mỹ đến khu vực xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu với ý định bắt trộm gà bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến khu vực cầu Gò Găng, gần Biến Diệp, Thôn 4, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, T thấy trước cửa nhà của ông Từ Minh C có để 01 xe mô tô hiệu Suzuki biển số 72F1- 6636, không ai trông coi chìa khóa còn cắm trên ổ khóa xe nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô trên để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. T đi đến gần chiếc xe, sau đó dắt bộ xe khoảng 10 mét rồi khởi động và điều khiển xe về bãi đất trống tại xóm Tiên thuộc ấp Phước Hiệp, xã Tân Hòa, thị xã Phú Mỹ và ngủ tại đây. Đến khoảng 9 giờ, ngày 18 – 10 – 2019, anh Võ Ngọc S đi ngang qua và nhìn thấy T cùng chiếc xe nên ngỏ ý muốn mua để sử dụng đi thu mua phế liệu. T đồng ý và bán xe trên cho anh Sơn với giá 800.000 đồng nhưng không nói cho anh Sơn biết về nguồn gốc chiếc xe. Số tiền có được T đã tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng. Sau khi mua được xe mô tô trên, anh Sơn nhìn thấy biển số xe 72F1-6636 gắn trên đã cũ nên vứt đi, sau đó mua biển số xe 60T1-5196 từ người thu mua ve chai rồi gắn vào xe để sử dụng. Ngày 15 – 12 – 2019, ông Từ Minh C phát hiện Võ Ngọc S đang đi xe có đặc điểm giống xe của mình đã bị mất nhưng gắn biển số khác nên ông Chiến đã báo Công an xã Long Sơn để xác minh làm rõ. Tại Công an xã Long Sơn, Võ Ngọc S khai đã mua của Lê Văn T như đã nêu trên và giao nộp xe tang vật cho cơ quan Công an.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 39/KL-HĐĐG-TTHS ngày 03 – 03 – 2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận: 01 xe mô tô hiệu Suzuki biển số 72F1-6636, số máy: 119295, số khung: 72308F có giá trị: 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Suzuki số máy: 119295, số khung: 72308F; 01 biển số xe 60T1-5196. Đối với xe mô tô hiệu Suzuki số máy:

119295, số khung: 72308F có biển số thật là 72F1-6636 do ông Từ Đoan, sinh năm 1953, trú tại khu phố Hải Sơn, phường Phước Hòa, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đứng tên chủ sở hữu, ông Đoan đã bán chiếc xe trên cho một người tại xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu không nhớ tên. Ông Chiến xác nhận đã mua xe này của ông Trần Văn Hùng (hiện không rõ ở đâu) cách đây 2-3 năm. Do đó, có căn cứ xác định xe mô tô trên là của ông Chiến mua lại hợp pháp. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng số 38/QĐ-Đ1 ngày 16 – 4 – 2020, trả lại cho ông Chiến. Vật chứng nêu trên được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

gì.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Chiến đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu Đối với anh Võ Ngọc S khi mua không biết tài sản do T phạm tội mà có và đã tự nguyện giao nộp tài sản nên Cơ quan điều tra không xử lý về hình sự.

Bản cáo trạng số 129/CT-VKSTPVT ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 9 đến 12 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịctiêu hủy 01 biển số xe 60T1-5196 do không có giá trị sử dụng.

Bị cáo Lê Văn T đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải, đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 17 – 10 – 2019, tại Thôn 4, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, Lê Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Suzuki biến số 72F1-6636, số máy: 119295, số khung: 72308F của ông Từ Minh C, có trị giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Bị cáo đã bị kết án về tội ‘Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với anh Võ Ngọc S khi mua không biết tài sản do Thanh phạm tội mà có và đã tự nguyện giao nộp tài sản nên Cơ quan điều tra không xử lý về hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 60T1-5196 do không có giá trị sử dụng.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 173, điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Lê Văn T 9 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 20 tháng 02 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 60T1-5196. Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 143/BB.THA ngày 02 tháng 6 năm 2020.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2020/HS-ST ngày 16/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:121/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về