TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY N
BẢN ÁN 121/2020/DS-PT NGÀY 24/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI VÀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 120/2020/TLPT-DS ngày 24 tháng 4 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp Đồng góp hụi và hợp Đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2020/DS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 171/2020/QĐ-PT ngày 05 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị E, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp Bến K, xã Đôn T, huyện Trảng B (nay là thị xã Trảng B) tỉnh Tây N; có mặt.
- Bị đơn: Bà Lê Kim C, sinh năm 1968; có mặt.
Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1961; vắng mặt. Cùng địa chỉ: Ấp 6, xã Bàu Đ, huyện Gò D, tỉnh Tây N.
Ông Nguyễn Văn H không có liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
- Người kháng cáo: Bà Lê Kim C là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 02 tháng 01 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị E trình bày:
Bà C có tham gia hai phần hụi do bà làm chủ, hụi 5.000.000/tháng, tiền cò 2.500.000 Đồng/phần, hụi mở ngày 15 tháng 11 năm 2017, mãn hụi ngày 15 tháng 01 năm 2020 âm lịch, dây hụi gồm 27 phần, bà C hốt hụi hai lần vào ngày 15-01-2018 số tiền 120.500.000 Đồng và ngày 21-02-2018 âm lịch số tiền 120.500. 000 Đồng. Tổng cộng 2 phần hụi bà đã giao bà C số tiền 241.000.000 Đồng.
Sau khi hốt hụi, bà C có đóng tiền hụi chết cho bà. Bà C ngưng đóng hụi từ tháng 7 năm 2019 âm lịch đến nay, hai phần hụi này bà C có nợ bà tiền hụi chết là 91.000.000 Đồng.
Ngoài ra vào ngày 15-7-2019 âm lịch, bà C có nhờ bà mượn giùm số tiền 20.000.000 Đồng để đóng hụi, đến nay bà C vẫn chưa trả số tiền này cho bà.
Tổng số tiền bà C nợ bà là 111.000.000 Đồng. Do nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa bà C và ông H, bà C hốt hụi về để làm ăn lo cho gia đình nên bà yêu cầu bà C và ông H phải trả cho bà 111.000.000 Đồng, không yêu cầu trả tiền lãi.
Bị đơn bà Lê Kim C trình bày: Bà thừa nhận có nợ bà E số tiền 111.000.000 Đồng gồm 91.000.000 Đồng tiền hụi chết và 20.000.000 Đồng tiền vay. Hai bên có thống nhất bà trả cho bà E 60.000 Đồng/ngày cho đến khi hết số nợ 111.000.000 Đồng, bắt đầu trả nợ từ ngày 16-7-2019 âm lịch, bà E có nhờ người tên V không rõ họ tên, địa chỉ nhận tiền, bà trả cho bà E được 10.000.000 Đồng còn nợ 101.000.000 Đồng. Nay bà Đồng ý một mình bà trả cho bà E số tiền 101.000.000 Đồng, vì mọi giao dịch giữa bà và bà E ông H không biết.
Tại biên bản làm việc ngày 20-01-2020 ông H trình bày: Ông không biết bà E và không mượn tiền của bà E nên ông không có nghĩa vụ trả số nợ này.
Bản án sơ thẩm số: 03/2020/DS-ST ngày 28-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N đã quyết định:
Căn cứ các Điều 357, 463, 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị E đối với bà Lê Kim C.
Buộc bà Lê Kim C có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị E số tiền 111.000.000 Đồng. Ghi nhận bà E không yêu cầu trả lãi.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị E đối với ông Nguyễn Văn H.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền, nghĩa vụ thi hành án; lãi suất chậm thi hành án; án phí; quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/3/2020 bà Lê Kim C có đơn kháng cáo, chỉ Đồng ý trả cho bà Nguyễn Thị E số tiền 91.000.000 Đồng vì đã trả góp được 10.000.000 Đồng và trừ 10.000.000 Đồng do bà E tính nhầm tiền khi hốt hụi.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà C giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu bà E trừ ra 10.000.000 Đồng tiền bà đã trả góp cho bà E và 10.000.000 Đồng do bà E tính nhầm tiền hốt hụi, bà chỉ Đồng ý trả cho bà E 91.000.000 Đồng; bà xác định dây hụi có 27 phần, bà đã hốt 02 phần hụi vào tháng 01 và tháng 02 năm 2018; việc bà trả góp tiền cho bà E 10.000.000 Đồng thông qua chị V nhận, bà đã gặp chị V nhưng chị V không Đồng ý làm chứng cho bà nên bà không có chứng cứ chứng minh việc trả tiền góp.
Bà E không Đồng ý yêu cầu kháng cáo của bà C, xác định tính đúng tiền hốt hụi 2 phần cho bà C là 241.000.000 Đồng, không có nhận tiền trả góp 10.000.000 Đồng như bà C trình bày nên không Đồng ý khấu trừ, yêu cầu bà C trả 111.000.000 Đồng, không yêu cầu tính lãi suất.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây N:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội Đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội Đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Kim C, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xE xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội Đồng xét xử xét thấy:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Lê Kim C chỉ Đồng ý trả cho bà E số tiền 91.000.000 Đồng, yêu cầu trừ tiền đã trả góp 10.000.000 Đồng và 10.000.000 Đồng do bà E tính nhầm tiền hốt hụi, thấy rằng:
+ Đối với yêu cầu trừ 10.000.000 Đồng đã trả góp:
Tại biên bản lấy lời khai bà Lê Kim C (bút lục số 17) và biên bản hòa giải của Tòa án (bút lục số 33) bà C xác định còn nợ bà E tiền hụi chết 91.000.000 Đồng và tiền vay 20.000.000 Đồng, tổng cộng là 111.000.000 Đồng, nhưng cho rằng đã trả góp cho bà E được 10.000.000 Đồng thông qua người tên V nên chỉ Đồng ý trả 101.000.000 Đồng.
Bà E không thừa nhận việc bà C trả góp 10.000.000 Đồng, vì không có nhận tiền trả góp từ bà C cũng như người tên V. Bà C không có chứng cứ chứng minh việc trả góp tiền cho bà E. Bản án sơ thẩm buộc bà C trả cho bà E số tiền 111.000.000 Đồng là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà C khai đã trả góp cho bà E được 10.000.000 Đồng thông qua người tên V, nhưng hiện nay chị V không Đồng ý làm chứng cho bà.
Xét thấy, bà C yêu cầu trừ 10.000.000 Đồng đã trả góp cho bà E; bà E không thừa nhận; bà C không có chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận.
+ Đối với yêu cầu trừ 10.000.000 Đồng cho rằng bà E tính nhầm tiền hốt hụi:
Tại phiên tòa phúc thẩm bà C khai bà có góp hai phần hụi do bà E làm chủ hụi, bà đã hốt hết hai phần hụi vào tháng 01 và tháng 02 năm 2018, theo bà tính tiền hốt hai phần hụi phải là 251.000.000 Đồng. Tại (bút lục số 18,19) giấy ghi tiền hốt hụi do bà E cung cấp có trong hồ sơ vụ án thể hiện tiền hốt hụi vào ngày 15 tháng 01 năm 2018 và ngày 21 tháng 02, hụi có 27 phần, hai phần hụi hốt được số tiền 241.000.000 Đồng bà C có ký tên vào giấy hốt hụi. Xét thấy, lời khai của bà C tại phiên tòa đã hốt hai phần hụi vào tháng 01 và tháng 02 năm 2018 phù hợp với chứng cứ tại bút lục số 18, 19. Bà C không có chứng cứ chứng minh bà E tính nhầm tiền hốt hụi nên không có cơ sở chấp nhận trừ 10.000.000 Đồng như bà C yêu cầu.
Bà C kháng cáo yêu cầu trừ 10.000.000 Đồng đã trả góp cho bà E và 10.000.000 Đồng bà E tính nhầm tiền khi hốt hụi nhưng không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở chấp nhận.
[2] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà C, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N là có căn cứ.
[3] Từ những phân tích trên xét thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà Lê Kim C; giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Kim C kháng cáo nhưng không được chấp nhận nên phải chịu án phí 300.000 Đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308; các Điều 357, 463, 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án 1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị E.
2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 03/2020/DS-ST ngày 28-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N.
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị E đối với bà Lê Kim C.
Buộc bà Lê Kim C có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị E số tiền 111.000.000 (một trăm mười một triệu) Đồng. Ghi nhận bà E không yêu cầu trả tiền lãi.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị E đối với ông Nguyễn Văn H.
5. Về án phí:
5.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Kim C phải chịu 5.550.000 Đồng (năm triệu năm trăm năm mươi nghìn) Đồng; bà Nguyễn Thị E không phải chịu án phí. C cục thi hành án dân sự huyện Gò D, tỉnh Tây N hoàn trả cho bà Nguyễn Thị E số tiền 2.775.000 Đồng (hai triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn) Đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà E đã nộp theo biên lai thu số 0000034 ngày 03-01- 2020.
5.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Kim C phải chịu 300.000 Đồng, khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí bà C đã nộp theo biên lai thu số 0000255 ngày 20-3- 2020 của C cục thi hành án dân sự huyện Gò D, tỉnh Tây N.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 121/2020/DS-PT ngày 24/06/2020 về tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 121/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về